Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do
Đầu bạc giang san thù
chưa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
Tiểu Sử: Danh tướng Đặng Dung, sinh không rơ mất năm 1413. Ông người Nghệ An
nhưng theo gia đ́nh vào lập nghiệp tại vùng đất nay thuộc tỉnh Thăng B́nh, tỉnh
Quảng Nam. Ông cùng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy rước Trần Quư Khoách về Nghệ An
lập lên vua Trùng Quang quyết liệt kháng Minh. Năm 1413 ông cùng vua Trùng Quang
bị bắt giải về Tàu, nửa đường ông trầm ḿnh tự tử. Ngoài gương anh hùng tiết
liệt, Đặng Dung c̣n được xem như một nhà thơ lớn của dân tộc mặc dù ông chỉ để
lại một ít bài thơ, trong đó có bài Cảm Hoài nổi tiếng. Sau đây là một bài viết
phân tích bài thơ Cảm Hoài của ông.
Trong lịch sử có những tráng sĩ, danh tướng ngẫu nhiên làm một vài bài thơ. Thơ
của họ được người đời sau biết đến là nhờ danh tiếng của họ lưu trong lịch sử.
Lư Thường Kiệt, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư nằm trong trường hợp này. Nói đến
Lư Thường Kiệt người ta nhắc tới bài thơ có câu "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Nói
tới Trần Quang Khải người ta kể "Đoạt sáo Chương Dương độ". Và nói tới Trần
Khánh Dư người ta đề cập tới bài Bán Than. Đó là trường hợp từ danh của tướng
người ta liên tưởng tới thơ của họ. Trường hợp của Đặng Dung ngược lại: từ thơ
người ta liên tưởng tới cuộc đời của ông. Đặng Dung làm thơ nhiều hay ít không
rơ, chỉ biết ông có một bài duy nhất được lưu lại, đó là bài Cảm Hoài (hay Thuật
Hoài). Với bài này tên ông đă có chỗ đứng trong văn học sử, và người đời sau khi
đọc bài thơ không thể không khen cái hay của nó. Yêu thơ, muốn t́m hiểu thêm về
tâm sự và cuộc đời tác giả, người ta sẽ thích thú khi biết rằng ông là một nhà
ái quốc tuyệt vời, một dũng tướng can trường, một nhân kiệt hiếm có, một tráng
sĩ hiên ngang, khí phách sống vào thời Trần mạt. Bài Cảm Hoài của ông nguyên tác
bằng chữ Hán, phiên âm như sau:
Thế sự du du nại lăo hà, (*)
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca, (*)
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. (*) (1)
Trí chúa hữu hoài phù địa trục, (*)
Tẩy binh vô lộ văn thiên hà, (3)
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch ,(*) (2)
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Lư Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am Văn Tập, khi đọc bài thơ này
đă hết lời ca tụng người sáng tác ra nó là "phi hào kiệt chi sĩ bất năng" (không
phải là kẻ sĩ hào kiệt th́ không thể sáng tác được như vậy).
Ta hăy lược qua thân thế của tác giả để có thêm chất liệu soi sáng thêm cho phần
thưởng thức bài thơ.
Đặng Dung sinh và mất năm nào không rơ, chỉ biết ông là người làng Tả Thiên Lộc,
huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh. Thân phụ ông là Đặng Tất làm quan triều Trần. Khi
quân Minh do Trương Phụ thống lănh chiếm nước ta, năm 1407 Đặng Tất cùng đồng
liêu là Nguyễn Cảnh Chân theo giúp Giản Định Đế chống quân Minh. Nhưng Giản Định
Đế nghe lời xiểm nịnh giết cả Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất. Đặng Dung và Nguyễn
Cảnh Dị, con Nguyễn Cảnh Chân, v́ đại cuộc quên thù nhà, đem quân từ Thuận Hóa
về Thanh Hóa, tôn Trần Quư Khoáng lên làm vua, đó là Trùng Quang Đế, để tiếp tục
sự nghiệp chống Minh. Chiến công đáng ghi nhớ nhất trong đời ông là đánh úp
doanh trại quân Minh trong một đêm của tháng 9, năm 1413. Ông và một vị tướng
khác là Nguyễn Suư cầm đầu một toán quân xung kích nhảy lên thuyền tướng giặc,
tính bắt sống, nhưng nhờ đêm tối Trương Phụ đă thoát hiểm.
Thời Trần mạt, tráng sĩ, nghĩa sĩ khá đông, ngoài cha con ông, và cha con Nguyễn
Cảnh Dị c̣n có kẻ sĩ can tràng Nguyễn Biểu, dũng sĩ hiên ngang Nguyễn Suư, v.v..
nhưng v́ nghiệp nhà Trần đă hết, vận nước gặp hồi điêu linh, nên tất các cuộc
khởi nghĩa chống quân thù đều thất bại, và bao nhiêu kiệt sĩ đă phải ngậm đắng
nuốt cay v́ vận mạt. Sau khi cuộc kháng chiến thất bại, vua Trùng Quang và các
tướng tá bị bắt, có sách ghi là ông ở trong đám người bị bắt đó. Trên đường bị
giải về Yên Kinh ông và vua Trùng Quang đă nhảy xuống sông tự vẫn.
Bây giờ chúng ta lắng nghe Đặng Dung dăi bầy nỗi cảm hoài qua 8 câu thơ của ông
:
1- Việc đời c̣n dằng dặc mà ḿnh đă già mất rồi,
2- (vậy nên) đất trời mênh mông thu lại là một cuộc say hát (mà thôi).
3 - Gặp thời bọn giết heo, bọn câu cá cũng thành công dễ,
4- (nhưng) lỡ vận th́ anh hùng cũng đành nuốt hận nhiều (2).
5- Giúp chúa có ḷng đỡ trục trái đất,
6- (nhưng tiếc rằng) rửa binh không có đường kéo sông trời (3).
7 - Nợ nước chưa báo được đầu đă sớm bạc,
8- (đáng tiếc thay) đă bao phen mài gươm Long Tuyền dưới ánh trăng.
Bài thơ mở ra bằng cái bi phẫn của thi-nhân-tráng-sĩ, ngao ngán v́ việc đời c̣n
ngổn ngang mà tuổi đă xế chiều. Bi phẫn đó dẫn đến lời ngậm ngùi: trời đất mênh
mông rút lại không chừng chỉ c̣n là một cuộc say hát nghêu ngao. Ta bắt gặp ư
niệm tương tự nơi Tiêu Sơn Tráng Sĩ thời Lê mạt. Khi cuộc phục Lê đă vô vọng,
t́nh yêu với Trương Quỳnh Như không thành, Chiêu Ĺ Phạm Thái đă trốn vào rượu,
suốt ngày ngâm câu "Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu, không
đong đầy đôi mắt mỹ nhân".
Rồi từ nỗi chán chường đó thi nhân tự t́m an ủi trong triết lư về thời và vận,
đầy chua cay nhưng không kém ngạo nghễ: "Thời lai đồ điếu thành công dị, vận khứ
anh hùng ẩm hận đa!" Coi thường Phàn Khoái (dũng tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang
vốn làm nghề giết heo - đồ là kẻ giết heo) nghe c̣n tạm xuôi nhưng khinh thị Hàn
Tín (đại nguyên soái của Hán Cao Tổ, khi hàn vi là anh đi câu cá kiếm ăn - điếu
là đi câu cá) th́ thật quá đáng. Bởi Hàn Tín là một đại tướng lừng danh của lịch
sử Trung Quốc, một trong mấy hào kiệt đă giúp chúa dựng nên đế nghiệp vẻ vang.
Nhưng tại sao đọc hai câu thơ này ta không thấy chướng tai, mà lại thấy lời thơ
hùng tráng và ư tứ ngậm ngùi- Bởi v́ Đặng Dung là một tráng sĩ ... thất bại,
nhất là thất bại trong sứ mạng phục quốc. Người ta thường chỉ chê những kẻ công
thành, danh toại mà có những lời ngạo mạn, nhưng lại thông cảm và thích thú với
lời ngạo nghễ, khinh bạc của những kẻ có chí, có tài nhưng lỡ thời, lỡ vận. Bài
thơ được nhiều người ưa thích, và truyền lại cho hậu thế một phần có thể là nhờ
hai câu thơ hùng tráng và đầy ngạo nghễ này. Đối với những hào kiệt lỡ vận nó là
một lời an ủi thấm thía, một phản ảnh tâm lư tuyệt vời. Suốt ḍng lịch sử đấu
tranh của dân tộc ta, biết bao nhiêu anh hùng đă lỡ vận, đă có tâm sự bi phẫn
giống như tâm sự của người tráng sĩ làng Thiên Lộc, khi đọc hai câu thơ này chắc
là họ sẽ thấy thấm lắm.
Nếu bốn câu đầu của bài thơ phản ảnh suy tư và triết lư thời vận của nhà thơ th́
bốn câu sau phản ảnh tâm sự và tấm ḷng của ông đối với dân, với nước. Người hào
kiệt ấy dốc ḷng nhận trách nhiệm, sẵn sàng ghé vai khiêng trái đất, kéo sông
trời mà gột giáp binh để đem độc lập về cho đất nước, mang thanh b́nh lại cho
muôn người. Bao phen mài gươm kiên nhẫn đợi chờ mà thời vẫn chẳng chiều. Bài thơ
khép lại bằng h́nh ảnh của một bạch đầu tráng-sĩ dưới nguyệt mài gươm đầy thơ
mộng, hào hùng, và lồng lộng một tấm ḷng phục quốc khôn nguôi. Đem tiểu sử soi
chiếu vào thơ, người ta càng thêm cảm phục tấm ḷng của kẻ đă v́ nợ nước coi nhẹ
thù nhà, đă tận tụy với quê hương cho tới khi lâm tử. Bài thơ của ông quả thật
tuyệt vời cả ư lẫn lời.
* Ngoài một số bài thơ Đường, có lẽ Cảm Hoài của Đặng Dung là bài thơ chữ Hán có
nhiều người dịch nhất. V́ sự hạn hẹp của ngôn ngữ và sự phong phú của thơ, người
dịch khó ḷng chuyển được hết ư quấn quưt, tứ súc tích, lời hào hùng, khí ngạo
nghễ, hồn lồng lộng của bài thơ.
Ba chữ nại lăo hà ở cuối câu 1 nửa như lời tự hỏi đầy ngao ngán: già rồi ư? già
mất rồi ư?. Nửa như trách móc thời gian: sao vội bắt già! (nại hà: làm sao, thế
sao, nài nỉ sao). Về ba chữ nhập hàm ca ở cuối câu 2, nếu hiểu hàm và ca tách
biệt nhau th́ ư thơ thành ra: rút lại chỉ c̣n là say sưa và ca hát (nghêu ngao);
nếu hiểu hàm giúp nghĩa cho ca th́ ư thơ có thể hiểu là: rút lại chỉ c̣n là cuộc
hát say sưa, mê mải (cho quên chuyện đời). Sâu kín trong hồn của hai câu thơ là
cái triết lư: với khoảng đời sống trong thời gian vô tận (thế sự du du) và không
gian không bờ (thiên địa vô cùng) con người sẽ khó thực hiện được hoài băo lớn
lao.
Hai câu 3 và 4 tương đối dễ dịch nghĩa nhưng lột được cái khí ngạo nghễ của tứ,
và điệu mạnh mẽ của lời lại không dễ. Hai chữ "đồ điếu"vừa khinh bạc (bọn hèn
kém giết heo, câu cá), vừa ngạo nghễ (những thứ như Phàn Khoái, Hàn Tín) giữ
nguyên được ư th́ lời không được sáng rơ, mà thoát dịch cho được lời rơ th́ khó
mà gồm được cả hai ư. Sự khó khăn trong việc dịch 2 câu thơ này là ở chỗ đó. Và
trên thực tế chưa có ai dịch được cả ư lẫn lời của hai câu này một cách thành
công hoàn toàn.
Trong câu 5 "phù địa trục" được dùng thật gợi h́nh và lạ lùng. Gợi h́nh v́ h́nh
ảnh một tráng sĩ ghé vai khiêng trái đất làm ta liên tưởng tới cái ư vừa chấp
nhận trọng trách nặng nề, vừa tận tụy thi hành. Lạ lùng v́ địa trục gây cho ta
ấn tượng trái đất h́nh cầu trong khi ở đầu thế kỷ 15 người ta chưa biết được
trái đất h́nh cầu, vậy hẳn là Đặng Dung cũng chưa biết, không hiểu tại sao ông
lại dùng được hai chữ đó. Địa trục lại đối chọi một cách thú vị với thiên hà ở
câu dưới. Câu 6 tứ thơ khó chuyển v́ điển tích "văn thiên hà" và từ "binh" để
chỉ binh khí . Ư sâu kín trong hai câu thơ là tấm ḷng của ông đối với nước (câu
5), và hoài băo của ông mong đem thanh b́nh đến cho dân (câu 6), cho nên dịch
được cả ư và lời của hai câu 5, 6 này rất khó. Khó không kém ǵ câu 3 và câu 4 ở
trên, có phần khó hơn v́ cai ư ẩn sâu mà người đọc thơ phải đào kỹ mới thấy.
Gợi h́nh nhất của bài thơ là hai câu cuối, đúng là thi trung hữu họa. Rất nhiều
người sẽ yêu hai câu thơ này v́ h́nh ảnh hào hùng của của một tráng sĩ bạc đầu
vẫn kiên gan mài kiếm dưới trăng. Nó rực rỡ hơn nhiều h́nh ảnh Tôn Thất Thuyết
ngồi cầm gươm chém đá trong những ngày tàn của cuộc đời. Nó tuyệt vời hơn nhiều
h́nh ảnh một thi sĩ Cao Tần vác thanh kiếm gẫy lên non vạch đất nhớ quê hương.
Bài thơ, về khía cạnh riêng, phản ảnh hoàn cảnh, tâm sự và hoài băo của tác giả,
nó gây cảm ứng đồng điệu nơi người đọc. Về khía cạnh chung nó làm rung động sâu
xa mỹ cảm nơi người đọc v́ h́nh ảnh và nhạc điệu phong phú của nó.
V́ bài thơ có quá nhiều ưu điểm nên người ta khó ḷng dịch được hết cái hay. Để
thưởng thức trọn vẹn bài thơ, có lẽ ta nên đọc và thưởng thức thẳng vào nguyên
tác. Tuy nhiên ở đây chúng tôi cũng xin chép lại mấy bản dịch đă sưu tầm được,
và chúng tôi cũng dịch một bản, hy vọng những bản dịch này sẽ gây thêm hứng vị
cho độc giả.
1. Bản dịch của Phan Kế Bính, trích trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say,
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong pḥ chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đă bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
2. Bản dịch trong Việt Nam Nhân Vật Chí Vựng Biên của Hồ Đắc Hàm và Thái Văn
Kiểm
Tuổi về già, phải thời bối rối,
Cả đất trời một hội mê say,
Gặp thời kẻ dở nên hay,
Anh hùng lỡ vận, đắng cay trăm phần.
Ḷng cứu chúa muốn vần trái đất,
Gột giáp binh khôn dắt sông trời.
Thù c̣n đầu đă bạc rồi,
Mấy phen dưới nguyệt chuốt mài lưỡi gươm.
3. Bản dịch của Phan Vơ
Việc thế lôi thối tuổi tác này,
Mênh mông trời đất hát và say,
Gặp thời đồ điếu thừa nên việc,
Lỡ vận anh hùng luống nuốt cay.
Giúp chúa những lăm giằng cốt đất,
Rửa ḍng không thể vén sông mây.
Quốc thù chưa trả già sao vội,
Dưới nguyệt mài gươm đă bấy chầy.
4.Bản dịch của Đào Hữu Dương
Tuổi già lận đận nỗi t́nh đời,
Vô tận vần xoay khoảng đất trời,
Ti tiện gặp thời lên chẳng khó,
Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi.
Vác non pḥ chúa trên vai nặng,
Gột giáp qua mây mặt nước trôi
Thù nước chưa xong đầu sớm bạc,
Dưới trăng mài kiếm mấy thu rồi.
5. Bản dịch của Vũ Hải Tiêu
Thế cuộc mênh mang tuổi sớm già,
Đất trời thu lại chỉ say ca,
Gặp thời đồ điếu thành công dễ
Lỡ vận anh hùng nuốt hận đa.
Giúp chúa những mong nâng địa trục,
Rửa binh không lối kéo thiên hà.
Quốc thù chưa trả đầu mau bạc,
Bao độ mài gươm dưới nguyệt tà.
6. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
Tan tành sự thế luống cay ai !
Pḥ vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
7. Bản dịch của Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do
Thế sự ngổn ngang tuổi luống rồi,
Đất trời thu lại hát say thôi,
Anh hùng nuốt đắng khi tàn vận,
Đồ điếu nên công lúc gặp thời.
Giúp chúa rắp tâm nâng trái đất,
Rửa binh khôn lối kéo sông trời.
Quốc thù chưa báo đầu mau bạc,
Bao độ gươm mài bóng nguyệt soi.
----------------------
Chú thích:
(*) Bản chép khác: câu 1: Thế lộ du du ... câu 2: Nhập thù ca, câu 4: Sự khứ anh
hùng ... câu 5: Trí chúa hữu tâm, câu 7: Quốc thù vị phục đầu tương bạch.
(1) Hai chữ "đồ, điếu" ở câu 4 là chỉ Phàn Khoái, làm nghề đồ tể trước khi ra
giúp Lưu Bang, và Hàn Tín, lúc c̣n hàn vi đi câu để chờ thời, sau cầm quân giúp
Lưu Bang dẹp Tần, Sở lập nên nhà Hán.
(2) Câu 6 lấy ư từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mă của Đỗ Phủ, thời Đường bên
Trung Hoa:
"An đắc tráng sĩ văn Ngân Hà,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng"
Ước ǵ có kẻ tráng sĩ kéo sông Ngân Hà,
rửa sạch giáp binh để lâu dài không phải dùng tới nữa.
Ư để chỉ sự ḥa b́nh lâu dài.