Ngôn-ngữ là phương-tiện để
con người giao-tiếp với nhau, hoặc bằng lời nói hoặc bằng chữ viết. Trải qua
những thời gian và không gian khác nhau, ngôn-ngữ cũng thay đổi theo nhu-cầu
hay hoàn-cảnh.
Vào thời-kỳ hàng nhiều ngh́n năm trước, việc học-hành chưa được phổ-biến như
hiện nay và các hệ-thống chữ viết và kỹ-thuật in chưa được phát-triển,
ngôn-ngữ chủ-yếu là h́nh-thức nói và truyền khẩu.
Tại quê nhà hiện nay, nhờ việc giáo-dục được phổ-biến rộng-răi, và kỹ-thuật
in ấn phát-triển cao độ, chúng ta nói chuyện với nhau hay đọc sách báo bằng
tiếng Việt ... thấy rất b́nh thường, tưởng như là chuyện đương nhiên, có ǵ
mà phải thắc-mắc. Nhưng đến khi ra sống tại hải-ngoại, đời sống mới đ̣i hỏi
chúng ta phải nghe, nói, đọc và viết được ngôn-ngữ bản xứ th́ nhiều người
đôi khi mới ... thấy mệt .... với cái hàng rào ngôn-ngữ (language barrier).
Và nhiều khi thấy ḿnh nói ... tiếng Anh với người Úc... chứ có phải nói
tiếng Việt đâu, mà sao lắm lúc họ không chịu hiểu ḿnh, hoặc ngược lại.
Trong khi tiếng Việt của ḿnh sao mà dễ thương thế, người Việt nói tiếng
Việt với nhau ai cũng hiểu, đâu có rắc-rối như tiếng Anh tiếng U.
Tuy nhiên, tiếng Việt cũng như bất cứ ngôn-ngữ nào khác đều có những
đặc-tính hay những rắc-rối riêng, chứ không phải lúc nào cũng dễ hiểu nhau
hoặc dễ thương. Ḿnh thử phân-tích ... sơ-sơ thôi ... xem sao nhé. Tạm thời
lấy nước Việt-Nam như hiện nay làm căn-bản để từ đó bàn tới, bàn lui, bàn
ngang, bàn dọc ra.
Thường thường người ta có khuynh-hướng lấy thủ-đô của một nước để làm
tiêu-chuẩn cho nhiều lănh-vực, trong đó có ngôn-ngữ, nhất là khi quốc-gia ấy
đă có lịch-sử lâu dài. Như vậy, tạm xem như tiếng nói và chữ viết của người
Hà-Nội là đúng, là chuẩn mực, nhưng là ngôn-ngữ của người Hà-Nội khoảng 50
năm về trước, chứ sau đó, những biến-chuyển lịch-sử đă làm thay đổi các
mẫu-mực ngôn-ngữ ở Hà-Nội, và cho đến nay, số người thật sự có gốc Hà-Nội có
lẽ cũng chỉ c̣n khoảng trên dưới 50 phần trăm.
Theo
ḍng lịch-sử, việc mở-mang bờ-cơi về phía Nam đă đưa người Việt từ miền Bắc
di dân qua miền Trung, đến tận mũi Cà-Mâu ngày nay và một số hải đảo. Trên
lư-thuyết, ngôn-ngữ càng gần gốc th́ càng giống ngôn-ngữ gốc. Tuy nhiên,
ngoài các thổ-âm (dialect) như tiếng Quảng (Nam, Quảng Ngăi), tiếng Nghệ
(An), tiếng Huế, v.v. có những sắc-thái riêng do sự pha trộn của tiếng Việt
gốc và tiếng hay điều-kiện sinh-hoạt địa-phương, thực-tế lại cho thấy là
người Việt tại miền Bắc (vẫn tạm lấy gốc là Hà-Nội) và người Việt tại miền
Nam dễ hiểu nhau hơn khi nói chuyện với nhau, dù bị ngăn cách bởi một khoảng
lănh-thổ miền Trung khá dài. Đáng lư ra, người Việt tại miền Bắc và miền
Trung phải dễ hiểu nhau hơn và phải có giọng nói khá giống nhau v́ gần nhau
hơn là miền Nam, vậy mà giọng nói miền Trung lại khá nặng (như giọng Huế)
hay phát âm khác khá nhiều, như giọng Quảng. Thí dụ: ba đồng boa đồng, tám
ngàn toám ngoàn.
Nhiều chữ đơn c̣n bị biến đổi để tránh việc phạm húy trong thời phong-kiến,
hoặc để tránh trùng tên với một vị nào đó ngoài xă-hội hay trong gia-đ́nh.
Do đó, nhiều chữ đơn đă phải đọc và viết trại đi. Thí dụ: Huỳnh thành ra
Hoàng, Vũ thành ra Vơ.
Trước 30-4-1975, tuy người dân miền Nam ( thuộc nước Việt-Nam Cộng-Ḥa )
cũng nói đủ các thứ giọng Bắc, Trung và Nam, nhưng sau ngày này, người dân
miền Nam có dịp nghe một loại tiếng Việt có nhiều nét hơi là-lạ, tuy vẫn
hiểu được, dù đôi khi hiểu lầm một cách tai-hại (như đem thức ăn đủ dùng
trong 10 hay 30 ngày để đi học tập cải-tạo, nhưng 10 hay 30 ngày đó lại có
nghĩa là ... tù mút chỉ ). Đấy là loại tiếng Việt được h́nh-thành trong nước
Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Ḥa, tức từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc. Một số thí dụ về
sự khác biệt giữa ngôn-ngữ thuộc 2 miền đất nướcbị chia đôi v́ lư-do
chính-trị như là :
Miền NAM
Thủy Quân Lục Chiến
Nữ quân nhân
Phi công quân-sự
Nhà hàng, tiệm ăn
Miền BẮC
Lính thủy đánh bộ
Chiến sĩ gái
Chiến sĩ lái
Cửa hàng ăn uống
Một thí dụ khác về việc xưng hô là các chữ đồng chí . Sau khi miền Nam bị
mất hay đượcgiải-phóng (tùy quan-điểm của từng cá nhân), các chữ đồng chí
được dùng để xưng hô với nhau khá phổ-biến ngoài xă-hội. Trong trại tù
cải-tạo, có người tù cải-tạo tưởng rằng xưng hô đồng chí với các cán-bộ
quản-giáo là ... hợp thời-trang ... nhưng bị cán-bộ lên lớp cho biết: “ các
anh là cải-tạo viên, không phải là đồng chí với chúng tôi, cấm không được
nói như thế.”
Tiếng Việt của phim Tầu: Khoảng chục năm trở lại đây, loại phim tập của
Hồng- Kông, Đài-Loan hay Trung Cộng được chuyển âm sang Việt ngữ rất nhiều.
Từ đó phát sinh một loại tiếng Việt của phim tập. Loại tiếng Việt này mà
nghe th́ xem như hiểu được hết nhưng giọng nói nghe khá ngộ-nghĩnh, có khi
hơi ngô-nghê v́ cách dùng chữ. Quư bạn nào để ư sẽ nhận ra nhiều chữ và
giọng nói là-lạ. Thí dụ :
- Có phải ngươi cũng định tranh chức Vơ-Lâm Minh Chủ, phải không ?
- Không sai (thay v́ trả lời là: Đúng thế.)
Hoặc là :
- Anh có chịu gả cho em không ?
(Anh có chịu cưới / lấy em không ?)
Tiếng Việt và tiếng Tầu: Theo một ít nhà nghiên-cứu, vào thời trước Tây
Lịch, nghĩa là cách nay hơn 2000 năm, giống người Việt là tổ-tiên của chúng
ta ngày nay cũng có loại văn-tự gọi là chữ Khoa Đẩu gồm các kư-hiệu và các
h́nh-tượng. Hệ-thống chữ viết này chưa được phát-triển và phổ-biến rộng-răi
th́ nước Việt thời ấy đă bị người Trung-Hoa thuộc chủng-tộc Hán đánh chiếm.
Người Hán Trung-Hoa đă t́m mọi cách để xóa bỏ các h́nh-thức văn-tự cổ xưa
này, và muốn đồng-hóa người Việt bằng cách bắt người Việt phải học và dùng
chữ Tầu như quốc-ngữ. Tuy nhiên, tổ-tiên của chúng ta vẫn nói tiếng Việt,
chứ không nói tiếng Tầu trừ khi phải giao-tiếp với người Tầu đang chiếm
nước. Ngoài ra, với tinh-thần chống lại việc người Tầu muốn đồng-hóa,
tổ-tiên ta đă dùng cách đọc chữ Hán theo kiểu Việt. Thí dụ: mặc cho người
Tầu viết cái ǵ bằng chữ Hán và đọc xí xa, xí xô theo lối phát âm của họ,
người Việt vẫn đọc những chữ, câu, văn bản, v.v. đó bằng tiếng Hán-Việt,
điển-h́nh như mấy câu thơ mà nhiều người có chút ăn học đều biết, như sau:
“Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vỹ.
Tương-tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thủy.”
Tuy bốn câu thơ trên viết bằng chữ Việt, đọc bằng âm Việt nhưng vẫn không
phải là thuần Việt, nên không phải ai cũng hiểu. Bởi thế, người xưa lại phải
dịch từ Hán Việt sang thuần Việt là:
“Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Nhớ nhau mà chẳng thấy,
Cùng uống nước sông Tương.”
Bốn câu dịch này sau đó tương đối được đa số chấp nhận là ... được, và những
ai đi học ở bậc Trung học tại miền Nam Việt-Nam trước ngày 30-4-1975, đều
biết và nhiều người chắc đă khá xao-xuyến với những cảm-xúc gói-ghém trong
mấy câu thơ dịch này, nhất là vào lứa tuổi mới lớn ở bậc Trung học. Tuy
nhiên, v́ ngôn-ngữ thay đổi theo không gian và thời gian cho nên cái ḿnh
tưởng là hay th́ người khác có thể không thấy như vậy. Điển h́nh là bốn câu
thơ dịch trên khi thử đem dạy cho một số học sinh Việt-Nam học Trung học tại
Melbourne th́ hầu như các em không thấy hay như các học sinh cùng thời với
người viết. Sau khi giải-thích th́ hầu như các em chỉ hiểu sông Tương ở đâu,
chàng và thiếp nghĩa là ǵ, đại ư của mấy câu thơ ... thế thôi. Chưa kể có
học sinh c̣n hỏi nửa đùa nửa thật là “Nước sông Tương có dơ không? Nước sông
không lọc, lỡ hai người uống bị đau bụng chết th́ sao ?”
Suốt
khoảng một ngh́n năm bị người Tầu đô-hộ, người Việt đă bị bắt buộc học và
dùng chữ Tầu. Do đó, ảnh-hưởng của chữ Tầu vẫn c̣n mạnh-mẽ đối với chữ Việt.
Thí dụ trên về mấy câu thơ đă được một số người cho là ... v́ không hiểu chữ
Hán hay Hán-Việt nên không thấy hay ... và c̣n đi xa thêm về nhiều lănh-vực
khác là “muốn giỏi tiếng Việt th́ phải biết tiếng Tầu.”
Song kể từ khi người Việt dùng h́nh-thức chữ viết như hiện nay và Việt hóa
nhiều chữ Aâu Mỹ, như “Hôm nay trời nóng quá, mặc quần soọc (le short) và áo
sơ-mi (la chemise) ngắn tay bỏ ngoài quần, chân đi săng-đan (la sandale) cho
thoải-mái. Ḿnh để xe hơi ở nhà rồi đón xe bớt (bus) hay xe trem (tram) để
đi sóp-pinh (shopping) cho tiện nghe, ô-kê (OK)? Khi nào mệt th́ ghé tiệm
làm ly cà-phê (le café) đá cho khỏe người. Cũng chả cần mang theo tiền mặt
nhiều làm ǵ, nếu cần mua ǵ nhiều th́ ghé nhà băng (la banque) rút tiền
sau, c̣n tiệm nào cho trả bằng cạc (card) th́ càng khỏe.”, th́ h́nh như chưa
có nhiều người cho rằng “muốn giỏi tiếng Việt th́ phải biết tiếng Tây hay
tiếng Ăng-lê.”
Tiếng Việt và tiếng Mường : Bất kỳ ngôn-ngữ nào cũng phải thay đổi ít nhiều
theo thời gian và các ảnh-hưởng khác. Có giả-thuyết cho rằng nguồn gốc người
Mường là những người Việt trước đây hàng ngh́n năm đă bỏ đồng bằng, chạy lên
rừng để tránh loạn-lạc rồi ở luôn đấy. Bởi thế, trong khi tiếng Việt ở
Hà-Nội và vùng đồng bằng biến đổi th́ người Mường vẫn nói bằng tiếng Việt cổ
nhưng không có chữ viết. Ta có thể xem một số thí dụ trích trong Từ Điển
Mường-Việt (Trung-Tâm Khoa-Học Xă-Hội và Nhân-Văn Quốc-Gia, Viện Ngôn-Ngữ
Học, nhà xuất-bản Văn-Hóa Dân Tộc, Hà-Nội, 2002) rồi tự suy ngẫm xem sao.
(Các chữ Mường đậm nét là chữ phiên âm, không phải chữ viết).
Cá hal cả hai. Cá hal tửa tều cỏ lỗi. Cả hai đứa đều có lỗi. Cá hal pên pổ
mễ tều pui. Cả hai bên cha mẹ đều vui. (trang 46)
Hep hẹp. Cải nhà nả hep lẳm. Cái nhà nó hẹp lắm. Nhà hep mé ḷng chăng hep.
Nhà hẹp nhưng ḷng không hẹp. (trang 178)
Việc chửi thề : Khi chửi thề, người Việt thường lôi kéo nhiều người và nhiều
đời vào để chửi chung, thay v́ chỉ chửi cá nhân người làm ḿnh bất măn. Biết
đâu nhiều người ngủ bị ác mộng hay tự nhiên đang ngủ bỗng giật ḿnh thức dậy
... là v́ bị người nào ở tận đâu đâu ... rủa sả ḿnh về chuyện không phải do
ḿnh làm, nhưng mà bị “cháy thành vạ lây”. Không những thế, nhiều khi việc
chửi bới c̣n có bài bản và có cả những chuyên viên chửi thuê khiến cho đối
thủ tối-tăm mặt mày. Thí dụ: có người ăn trộm con gà, con chó hay đồ-đạc của
nhà hàng xóm ... nhưng bị nghe chửi quá cỡ ... khiến nuốt không dzô, tiêu
xài không xong, phải âm-thầm đem trả lại. Ngược lại trong Anh ngữ, việc chửi
thề (swearing) thường chỉ nhắm vào cá nhân người trong cuộc thôi.
Lời ... đường mật: Ngôn-ngữ không phải chỉ để giao-tiếp mà nhiều khi c̣n là
phương-tiện để ... xúi người khác làm điều sai quấy. Những lời đường mật này
không thể nếm để thấy được vị ngọt ... nhưng mà nghe theo th́ ... có mà
chết.
Đàn bà, con gái mà nghe lời đường mật th́ dễ bị mang ba-lô ngược ngoài ư
muốn. Đàn ông, con trai mà nghe lời đường mật th́ dễ bị thân bại, danh liệt
hay tán gia, bại sản. Người điều-hành đất nước mà nghe lời đường mật th́ dễ
phản dân, hại nước hay cắt đất, nhường biển cho nước khác.
Bên cạnh loại ngôn-ngữ như lời đường mật, c̣n có các loại ngôn-ngữ khác như:
lời khích bác, lời xiên-xỏ, lời chua-ngoa, lời cay-cú, lời ngậm máu phun
người, lời thị phi, lời đồn-đăi, lời phỉnh-phờ, lời bóng gió, lời chụp mũ,
v.v. Những loại ngôn-ngữ này đầy-dẫy trong đời khiến cho nhiều khi muốn ....
sống cho ra sống ... cũng không dễ ǵ. Có một số “người khôn-ngoan” chọn
thái-độ sống ... trùm chăn ... không nghe, không thấy, không biết ... Nhưng
mà nếu trùm chăn lâu quá th́ các kỹ-năng về ngôn-ngữ : nghe, nói, đọc và
viết của họ sẽ bị giảm sút rất nhiều như: nghe không rơ v́ bị lăng tai hay
điếc, nói ngọng, đọc không thông, viết không thạo.
Tuy nhiên, có một loại ngôn-ngữ mang nhiều tính-chất rất trái ngược nhau v́
vừa rất cần làm nền tảng cho đời, vừa rất quư ... nhưng lại ... rất đáng
ghét và rất đáng sợ ... Đó là lời nói thật, v́ trường học dạy một đàng,
trường đời dạy một nẻo : sự thật mất ḷng ... trung ngôn nghịch nhĩ ... the
truth always hurts ... Ai mà sống trong đời hay dùng lời nói thật th́ thường
gặp hại nhiều hơn lợi.
Coi dzậy ... mà không phải dzậy : Đấy là cách dùng ngôn-ngữ gọi là ... tục
mà thanh, thanh mà tục ... tùy người đọc và nghĩ ... sao th́ nghĩ. Thí dụ :
Cụ bà Hồ Xuân Hương tả cái quạt :
“ Banh ra ba góc, da c̣n thiếu,
Khép lại hai bên, thịt vẫn thừa.”
là cụ bà tả cái quạt xếp cầm tay, chứ cụ bà đâu có tả cái quạt mo hay quạt
điện thổi tít tḥ-ḷ, có thể làm tốc quần tốc áo ai đâu, hoặc cụ đâu có tả
cái ǵ khác ... mà đám hậu sinh lại có kẻ dám nghĩ méo-mó ... thế này thế
nọ.
Hoặc với phương-pháp làm cho quả mít chín bằng cách lấy một cái cọc gỗ đóng
vào quả mít rồi đem phơi nắng ... là chúng ta sẽ có quả mít với ... những
múi thơm như mít, thay v́ chỉ là mấy câu văn xuôi chỉ-dẫn nghe dễ quên, cụ
bà đă vô cùng khéo-léo chỉ bảo bằng ... mấy câu thơ khó quên ... cho người
đời dễ nhớ :
“ Quân-tử có thương ... th́ đóng cọc,
Xin đừng máy-mó ... nhựa đầy tay.”
Viết ... lách: Trong những xă-hội mà có nhiều người hay bắt-bẻ hoặc có nhiều
người cầm quyền hay bắt bớ người khác ... th́ khi viết ǵ cần phải biết lách
... để tránh động chạm người khác hay tránh bị chụp mũ, có thể gặp hậu-quả
tai-hại, dù là vô t́nh hay cố ư. Bởi thế trong ngôn-ngữ nói hoặc viết, người
ta hay dùng cách rào đón hoặc lách để giảm thiểu các hậu-quả không hay. Đấy
là nguyên-nhân của sự ra đời các câu nhắc-nhở “Hăy uốn lưỡi bảy lần trước
khi nói” hoặc “bút sa là chết”. Song nếu mà lẩn-thẩn nghĩ rằng cứ mỗi khi
nói phải uốn lưỡi bảy lần th́ dần dần các bắp thịt của lưỡi sẽ nở to như bắp
thịt các lực-sĩ, sẽ che lấp miệng khiến phát âm không ra hay nói ú-a, u-ớ v́
lưỡi đầy miệng th́ ai mà hiểu nổi. Hoặc trước khi viết phải suy-nghĩ
chín-chắn, tay cứ mân-mê cái bút hoài v́ không biết đến thế nào là
chín-chắn, th́ e rằng không dám viết ǵ, song lại có thể vô t́nh luyện được
công-phu cầm nă thủ ... v́ mấy ngón tay cứ ...máy-mó măi.
Đấy mới là bàn ...lan-man và sơ-sơ ... về loại ngôn-ngữ thường dùng, chứ
thật ra c̣n nhiều loại ngôn-ngữ khác dễ làm người thường nhức đầu lắm như
ngôn-ngữ Toán học, ngôn-ngữ điện toán, v.v. Ngay cả con tim h́nh như cũng
biết nói nữa v́ hầu như nhiều người trong chúng ta đă từng nghe nói đến
“tiếng nói của con tim”. Mà nào đă hết đâu. Khi nghe lệnh “Tất cả giữ
im-lặng. Không ai được nói ǵ nữa !” th́ như vậy sự im-lặng nghĩa là không
nói ǵ cả chăng? ... Chưa chắc !
“Anh nghe em nói bằng im-lặng,
bằng dáng nghiêng-nghiêng động nét mày,
bằng cả mênh-mang chiều lắng đọng.
Nụ cười em gửi gió Thu bay.”
(Hương – thơ Đinh Hùng)
Ôi ! ... ngôn với ngữ ! ... Mệt quá đi thôi ... mệt quá đi ... thôi !
Nguyễn Khắc Ḱnh (cựu học sinh các trường tiểu học Bàn Cờ và tiểu học
Phan Đ́nh Phùng, Khu Bàn Cờ, Sài G̣n). Viết xong ngày 27-12-2004. Tháng đầu
mùa Hạ tại Melbourne.
|