.
Theo lời yêu cầu của một
số anh em quan tâm, xin viết loạt bài T́m Hiểu về Phong Thủy để chúng ta
cùng biết ro thêm và tránh những điều mê tín khi nhân loại đă bước sang
thế kỷ thứ 21
1. Phong Thủy là ǵi?
Phong là gió, Thủy là
nước. Hiểu đơng giản, phong thủy là khoa tim hiểu về tác dụng của gió và
nước trong đời sống con người.
Từ điển Từ Hải của Trung
Hoa ngày nay giải thích là khoa học về kham dư (trời đất), một
loại mê tín cho rằng ảnh hưởng của phong thủy trên nhà cửa, đất đai vườn
tượccó thể mang lại những điều may mắn hay xúi quẩy cho nhà ở hay mộ chôn.
Nói tắt là khoa xem nhà, xem đất.
Tự điển Từ Nguyên của Trung
Hoa giải thích tương tự phong thủy là khoa mê tín, cho rằng thế đất và
phương hướng của nhà cửa và phần mộ có thể rước hoạ ban phúc cho những
sinh hoạt của con người.
Điều này đi ngược lại với
lối hiểu biết dân gian được truyền thừa qua những truyện kư, phong thủy là
khoa học nhằm mong cầu điều may mắn tránh né chuyện rủi ro (xu cát tỵ
hung)
Phong tượng trưng cho động,
thủy tượng trưng cho tịnh (động và tịnh ở đây hiểu theo nghĩa tương đối.)
Hiểu rộng phong thủy là hơi thở và nguồn sống của con người. Người Đông
phương đặc biệt là Trung Hoa đă góp nhặt kinh nghiệm sống trong vũ trụ
thành khoa phong thủy hiểu như nghệ thuật phối trí môi trường sống để đạt
trạng thái hài hoà giữa con người và trời đất (ngưỡng quan thiên văn, phủ
sát địa lư.)
Trước khi thuyết tương đối
của Einstein được tŕnh bày, khoa phong thủy mang nhiều màu sắc huyền bí,
song từ ngày thuyết E= mc^2 được tŕnh làng, ta có
thể có một cái nh́n khoa
học hơn, vật chất như một dạng thức năng lượng chưa được khai triển đúng
mức nên không phát huy hết các năng lực của nó. Sự
tương tác giữa các lực trên
vật chất tạo nên các trường lực (fields of forces) được hiểu như một dạng
phóng xạ (radiation) có ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
Khoa vật lư và thiên văn
hiện đại đă giúp con người có một cái nh́n rơ hơn về lực tương tác giữa
các vật thể nói chung và các thiên thể trong giải Ngân Hà bao gồm Thái
Dương Hệ có trái đất mà chúng ta đang sống. Những dữ liệu về khối lượng,
chu kỳ, vận tốc của các hành tinh giúp giải thích những điều được ghi
trong kinh điển phong thủy như nguyên, hội, vận, thế, Thái Tuế, Tam Sát
một cách khoa học hơn.
Làm thế nào để có thể giải
thích nguồn gốc của gió và nước một cách hữu lư khả dĩ chấp nhận sẽ là một
cuộc truy nguyên của trứng và gà, hay sẽ phải viện dẫn đến một Đấng Sáng
Tạo. Nhưng theo nguyên lư cơ bản về lực và chuyển động, một vật nếu
không bị tác dụng của một ngoại lực sẽ nằm yên, khi chịu tác dụng của ngoại lực nó sẽ di chuyển theo phương của lực tác động theo một vận tốc và gia tốc tỉ lệ với lực tác động. Trong Kinh Lăng Nghiêm (Surangama) của Phật giáo, gió xuất hiện đầu tiên phá vỡ sự tĩnh lặng trong sáng của tâm, tạo nên trạng thái bất quân b́nh guyên thủy, khơi mào cho một số các phản ứng kế tiếp, mà sự xuất hiện của nước được kể đến thứ ba trong thứ tự phản ứng. Tất cả những phản ứng này là khởi nguyên của vũ trụ, sơn hà đại địa nhân sinh.
2. Sự h́nh thành của
khoa phong thủy Đông phương.
Những văn bản xưa nhất chỉ
dấu có một khoa gọi là phong thủy được ghi lại bằng giáp cốt văn (chữ ṇng
nọc) sau khi giải mă cho thấy khoa phong thủy đông phương có nguồn gốc ít
nhất là năm ngàn năm về trước. Những thành ngữ trong dân gian như
chọn đất mà ở (trạch địa nhi cư), gần nước hướng về mặt trời (cận
thủy hướng dương) cho thấy quan niệm này đă được phổ biến rộng răi đến mọi
người chỉ dấu rằng đă có một hệ thống tư duy hướng dẫn dân chúng cổ đại
khi t́nh trạng quần cư bắt đầu, mà dấu vết này có thể nhận ra trong Kinh
Thi, tập hợp ca dao tục ngữ của Trung Hoa đă được Khổng tử san định lại.
Vào thời Thương, Chu những địa danh trong đó có sự phân biệt giữa núi,
đồi, g̣, đống, sông, suối, lạch, ng̣i, chứng tỏ con người bấy giờ đă ư
thức về sự khác biệt h́nh thể và tác dụng của các địa thế và phương hướng
trong đời sống hàng ngày. Sự kiện Xe Chỉ Nam do Chu Công Đán chế tạo để
tiễn đưa sứ Việt về nước cho thấy áp dụng của phương pháp định vị đă vượt
khỏi những khái niệm căn bản về các thành tố được tượng trưng bằng tám quẻ
Tiên Thiên. Sự phân chia ranh giới đất đai thành đô, thành, châu, huyện,
thôn, ấp, chứng tỏ đă có sự phân biệt về kiến trúc và mật độ dân cư của
từng quần thể sinh hoạt. Tiếc rằng sau cuộc phần thư khanh nho do
Tần Thủy Hoàng phát động, tài liệu c̣n lại không minh chứng rơ nét được bộ
mặt xă hội thời bấy giờ.
Theo tài liệu c̣n sót lại,
diện tích của cung A Pḥng do Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây dựng chiếm đến
300 dặm, riêng điện trước của cung này có thể đủ chỗ ngồi cho chục ngàn
người, số dân phu huy động để xây cất lên đến 700 ngàn người, những con số
này cho thấy tầm vóc to tát của chỉ một hành cung, từ đó suy ra phải có
một bản đồ án quy mô, cụ thể và điều này chỉ có thể làm được khi đă có một
quan niệm hoàn chỉnh về thổ nghi phong thủy. Các triều đại kế tục nhà Tần
đều có cơ quan Tư Thiên Giám với nhiệm vụ chiêm tinh, tướng địa làm sao
giữ cho long mạch của hoàng triều vững bền, triệt hạ các long mạch của thứ
dân để tránh mầm mống tạo phản.
Nhà Tây Hán, thày phong
thủy được gọi là kham dư gia hay h́nh pháp gia.Đời Đông
Hán có tác phẩm Luận Hoành của Vương Sung giải thích rơ ràng về
thật mai táng;cùng các tác phẩm khác như Kham Dư Kim Qũy,, Cung
Trạch Địa H́nh, Di Đồ Pháp.v.v... Đời Ngụy Tấn có Quách
Phác nổi danh với bộ Táng Thư, được tôn vinh là tị tổ của khoa
phong thủy. Đến đời Tùy có Tiêu Cát với các tác phẩm Tướng Địa Yếu
lục, Trạch Kinh, Táng Kinh, Ngũ Hành Đại Nghĩa. Đời Đường có Dương
Quân Tùng, được giao phụ trách Tư Thiên Giám, phong chức Quốc sư, hàm Kim
Tử Quang Lộc Đại phu, tác phẩm được t́m thấy tại Đôn Hoàng là Trạch
Kinh, Dương Trạch Thư. Đời Tống có Trần Đoàn, Thiệu Khang Tiết; đời
Minh có Liêu Quân Khanh, và Lưu Bá Ôn nổi tiếng với tác phẩm Kham Dư
Mạn Hứng. Chúng ta cũng từng nghe những đồn đoán về việc Cao Biền đời
Đường t́m cách trấn yểm các linh mạch trong đất nước Việt Nam. Đến đời Nhà
Thanh Trung Hoa, triều đ́nh Thanh có Quốc Sư Quán trong đó quy tụ 400 cố
vấn về phong thủy cho vua Thanh chứng tỏ khoa phong thủy rất được coi
trọng trong các chế độ phong kiến. Đến thời kỳ Cộng Sản, các cuộc cải cách
ruộng đất, cải tạo thủy lợi mà mục tiêu ngấm ngầm là triệt hạ các địa mạch
được khai triển, không những trong đất nước Trung Hoa mà c̣n lan rộng trên
toàn thế giới. Tại Việt nam, các thày địa lư núp bóng các doanh nhân đă
hoặc mua lại hoặc thuê mướn đất đai của Việt Nam đă thi thố những thủ
thuật trấn yểm và đă có nhiều cuộc chạm trán với các cao thủ về địa lư của
Việt Nam. Các cuộc cải cách ruộng đất cải tạo thủy lợi ở Việt Nam rập
khuôn Trung Hoa cũng đă được dùng nhằm triệt hạ địa mạch, dập tắt mầm mống
chống đối, duy tŕ quyền thống trị đă được áp dụng sau 1954 ở miền Bắc và
1975 ở miền Nam Việt Nam.
Truyền nhân của các người
Trung Hoa đă len lỏi có mặt trên toàn thế giới để nắm quyền kiểm soát kinh
tế hầu lũng đoạn chính trị đă dựa vào phong thủy như bước đầu xâm nhập.
Hiện nay ở các nước tư bản, người theo Âu Mỹ học đang hăm hở tiến bước vào
môi trường phong thủy để trước hết thỏa trí hiếu kỳ, sau nữa mưu lợi cho
cá nhân, nên khoa phong thủy đă dần dần trở nên quen thuộc trong xă hội
văn minh.
3. Có hay không khoa
phong thủy Tây phương?
Nếu hiểu theo nghĩa mà
người Đông phương thường quan niệm, chúng ta sẽ cho là không có khoa phong
thủy Tây phương. Nhưng các nhà kiến trúc tây phương có khoa Thiết Kế Đô
Thị nhằm nghiên cứu và quy hoạch những khu vực dân cư theo những tiêu
chuẩn khoa học cụ thể. Nếu Đông phương có những kỳ tích nổi danh th́ Tây
phương với những đô thị, lâu đài hàng ngàn năm tuổi cho thấy những người
phác thảo và kiến lập đă có những hiểu biết cặn kẽ về những tác dụng của
phương hướng và thời tiết trong môi trường sống. Chỉ riêng tại Việt nam,
những công tŕnh thờ phượng do các nhà truyền giáo thiết lập cũng phản ánh
một số điểm tương đồng về quan niệm môi trường sống tuy biểu thị bên ngoài
có phần khác biệt. Như tại thị xă Phú Cường, có ba ngọn đồi cao, một dành
cho Toà Hành Chánh, một dành cho Nhà thờ và ngọn đồi thứ ba là một ngôi
chùa Phật giáo. Phần kế tiếp sẽ tŕnh bày về một số quan niệm về phong
thủy cũng như các trường phái chính và phụ của khoa phong thủy Đông
phương.
4. Các nguyên lư của khoa phong thủy.
Như tất cả các khoa
khác của đạo học Đông phương, phong thủy có nguồn gốc từ Kinh Dịch, mà
hiện nay Tây phương dịch ra là Book of Change. Tác giả của Kinh Dịch
cho đến nay vẫn chưa xác quyết được, song người Trung Hoa cho rằng tổ
tiên họ đă t́m ra những nguyên lư căn bản nhất của vũ trụ quan triết
học đông phương.
Việt Nam gần đây căn cứ vào những khai quật các di chỉ văn hoá tại Bắc
phần đă có những bài nghiên cứu nhằm dành tác quyền Kinh Dịch cho
người Việt. Trong một bài viết của Nguyễn Thiếu Dũng ngày 6/7/2004,
tác giả nêu ra giả thuyết về Trung Thiên Đồ, phần không có trong các
tài liệu Trung Hoa, để minh chứng rằng tổ tiên ḍng Việt là tác giả
của Kinh Dịch: nếu Tiên Thiên bát quái mô tả sự h́nh thành của vũ trụ
tương ứng với Thiên, Hậu Thiên bát quái mô tả sự vận hành của vũ trụ,
tương ứng với Địa, th́ Trung Thiên bát quái mô tả sự h́nh thành xă hội
con người tương ứng với Nhân, trong quan niệm tam tài Trời Đất Người
quen thuộc.
a.
Nguyên
lư thứ nhất: vạn vật đồng nhất lư:
Các hiện tượng, sự kiện xảy ra trên bầu trời, mặt đất và nhân gian có
chung một bản thể (khí).
Theo Kinh Dịch, vũ trụ là môi trường luôn thay đổi gồm hai dạng thức
(khí) tượng, và h́nh (tướng). Quan niệm này được biểu thị trong câu:
tại thiên thành tượng, tại địa thành h́nh. Một vài ví dụ có thể
t́m thấy trong tục ngữ về thời tiết: quầng hạn tán mưa, chớp đông
nháy nháy gà gáy th́ mưa. Hiện tượng h́nh quầng quanh mặt
trăng, chớp nhay nháy là biểu hiện của khí ở trên cao, sự kiện
khô hạn hay mưa là h́nh thái của khí ở trên mặt đất. Vai tṛ
của con người là giải mă các hiện tượng, hệ thống và lưu trữ những dữ
liệu để ứng phó với các hiện tượng và sự kiện này, từ đây phát sinh ra
nhánh thứ ba số (liệu), bao gồm tất cả các sử liệu, kinh điển,
sách vở, truyện kư… giúp cho sinh hoạt xă hội tồn tại và phát triển.
Nh́n trong nhăn quan khoa học đương đại, bộ ba nói trên được hiểu
trong nghĩa năng (tượng) energies, tín
(số) information và thế (h́nh) capacities.
Với những tiến bộ trong kỹ nghệ thông tin, con người đă có thể dùng kỹ
thuật số để kiến tạo (digitize) những h́nh ảnh và âm thanh trong không
gian ảo rất đáng khâm phục.
Theo quan niệm nhất thể này, mọi vật mọi sự chỉ là những dạng thức
biểu hiện khác nhau của năng lượng như nước trong các loại h́nh b́nh
chứa từ biển hồ ao sông ng̣i đầm lạch đến lu ảng chai lọ b́nh. Vật
dung để chứa có khác, nhưng tính chất lỏng của nước đều giống nhau.
Sinh khí biểu hiện nơi đất ta có núi non đồi dốc, g̣ nỗng, ụ lũng; nơi
thảo mộc ta có đủ các loại cây cỏ từ thấp đến cao; trong ḷng đất ta
có các loại quặng mỏ; trong sinh vật ta có bốn loài noăn thai hoá
thấp; qua năng lượng ta thấy có nắng mưa gió băo sấm chớp lửa cháy
tuyết sa… H́nh có khác nhưng khí tương đồng, tất cả chỉ
là sự xoay chuyển của những phản ứng lư hóa theo những điều kiện tiềm
ẩn có sẵn trong môi trường.
Làm
thế nào vạn vật có thể đồng nhất lư? Xét riêng quả địa cầu ta đang
sống, tất cả mọi sinh vật đều chịu tác dụng của lực hướng tâm như
nhau. Trái đất xoay quanh trục của nó hướng theo cḥm sao Bắc cực
(Polaris, Thuban, Vegas, Alpha Cephei) theo chiều từ đông sang tây.
Với tất cả các điểm trên trái đất, tổng hợp các lực tác dụng lên điểm
ấy bảo đảm trạng thái cân bằng tạm thời và phát triển. V́ sao nói cân
bằng tạm thời? Nếu cân bằng ấy là vĩnh viễn th́ điểm ấy sẽ không
chuyển động được nữa hay chuyển động đó sẽ là chuyển động với gia tốc
không đổi, con người và cỏ cây sẽ ở nguyên trạng như khi mới sinh ra.
Từ đó suy ra lực tác động đến mọi điểm có thay đổi, nhưng sự thay đổi
xảy ra theo một tần số khả dĩ không làm đổi phương của trục trái đất.
Chính nguyên lư này xác định hai quẻ Càn Khôn (thiên địa định vị)
trong tám quẻ của Kinh Dịch, có thể biểu thị bằng ngôn ngữ nhị phân là
cặp số (1, 0) biểu trưng cho liên tục và gián đoạn hay theo cách nói
người xưa là dương và âm.
b.
Nguyên lư biến dịch: thệ giả như tư phù bất xả trú dạ:
Trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử đă thốt ra nhận xét như trên về vận hành
của vũ trụ. Trong Hệ Từ truyện câu Dịch hữu Thái cực có nên
hiểu là v́ có thay đổi nên (muôn vật) đến điểm cực của
nó vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản? Chính trạng thái sau và
trạng thái trước của một vật tạo nên lưỡng nghi. Lưỡng nghi
hiểu như thế đă thành h́nh từ biến dịch; từ vô cực sang thái cực; từ
không sang có, từ 0 thành 1, từ gián đoạn thành liên tục. Phải chăng
đây là chỗ mà Lăo Tử gọi là Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh
tam?
Nhiều ngàn năm trước, nếu một quan sát viên đứng tại vị trí
sao Bắc cực nh́n theo trục trái đất đă thấy trái đất quay ngược chiều
kim đồng hồ quanh mặt trời giống như ta đang thấy hôm nay. Nhưng
người soạn thảo Kinh Dịch thời ấy cũng ngồi tại một vị trí trên mặt
đất và ghi nhận mặt trời lên ở một phía của nơi ông ở và xuống ở một
phía khác. Ông ta cảm thấy hơi ấm lan toả mỗi khi quả cầu ánh sáng
xuất hiện, càng lúc càng làm ông nóng bức như có lần đám cháy rừng đă
buộc ông phải bỏ nơi cư trú cũ để đi t́m một chỗ mới. Ông cũng cảm
thấy cái mát lạnh tăng dần khi quả cầu ánh sáng ch́m xuống trong màn
đen giống như những lần ông phải băng ngang những gịng suối trên
đường t́m kiếm thức ăn. Quả cầu ánh sáng ấy h́nh như có vỏ cứng bên
ngoài nhưng bên trong như có khoảng trống nhấp nháy những ánh lửa chói
mắt. Ông dùng đá vạch lên vách hang động hai vạch, vạch bên dưới liền
ông dùng biểu thị vỏ cứng, vạch ở trên đứt biểu thị khoảng trống nhấp
nháy. Đối với ông, h́nh vẽ ấy tượng trưng cho quả cầu lửa mà về sau
người ta gọi là mặt trời, tượng trưng cho sự ấm áp của lửa. Để ghi
nhận cái lạnh của những buổi sáng đầu đông, khi băng qua ḍng nước có
những mảnh váng băng kết nằm trên mặt suối, ông dùng hai vạch, vạch
trên liền, tượng trưng cho sự kết dính của băng. vạch dưới đứt đoạn,
tượng trưng cho sự trôi chảy của nước. Đó là h́nh tượng đầu tiên của
hai quẻ Ly và Khảm, sau này biến thể thành hai chữ hoả và thủy trong
văn tự Trung Hoa và định chiều chuyển dịch của vũ trụ. Phương mà mặt
trời thường lên sau này được gọi là phương đông, phương mặt trời ch́m
xuống được gọi là phương tây. Bốn quẻ được xác lập đă xác định vị trí
trong không gian và thời gian của con người bấy giờ. Biểu tượng này
c̣n được ghi lại qua các dấu hiệu của tôn giáo: Chữ thập t́m thấy
trong h́nh tượng Thánh giá của Thiên Chúa giáo, chữ Vạn trong biểu
tượng của Phật giáo.
Cặp Càn Khôn (1,0) giờ đây phải thay đổi v́ có thêm yếu tố
mới nên sẽ trở thành cặp (11, 00). Yếu tố mới được kư hiệu là cặp (01,
10) dành cho Ly Khảm.
Quan sát một chỗ trũng nước đọng lâu ngày ta thấy dấu vết của rêu, gần
suối khe cây cỏ mọc sum xuê um tùm, ta có thể đoán biết nước là nguồn
sinh trưởng cho thảo mộc. Những đám cháy rừng cho thấy cây khô có khả
năng dẫn hỏa, ta có thể suy luận cây cối có thể làm phát sinh ra lửa.
Sau đám cháy, chỗ c̣n lại là tro than, giống như bụi đất, ta có thể
phán đoán lửa có thể góp phần trong việc tạo nên đất cát; và đào bới
đất cát, ta có thể t́m thấy những mẩu quặng cứng chắc hơn đất đá, ta
có thể suy luận đất đá có thể là nguồ của những mỏ kim loại. Những
người chế tác Kinh Dịch chắc chắn cũng trải qua quá tŕnh quan sát,
ghi nhận, và suy đoán như chúng ta ngày nay, nhưng vào buổi sơ khai,
sự phát kiến ra tương quan sinh khắc chế hóa ngũ hành đă đóng góp rất
lớn trong việc thay đổi môi trường sống, để ứng phó với những hiện
tượng thiên nhiên như mưa băo sấm chớp. Với bốn quẻ căn bản bây giờ ta
có thêm các cặp Cấn Đoài, Chấn Tốn. Sơn Trạch thông khí, Lôi Phong
tương bác là những ghi nhận về tương quan giữa các hiện tượng đầu tiên
được kư hiệu với ba vạch. Núi được tượng trưng bằng vạch liền trên
cùng và hai vạch đứt ở dưới giống h́nh cái hang, đầm được tượng trưng
bằng vạch đứt ở trên biểu hiện nước và hai vạch liền ở dưới biểu hiện
đáy; Sấm được biểu hiện bằng hai vạch đứt ở trên, một vạch liền ở
dưới, và gió được biểu hiện bởi hai vạch liền ở trên, một vạch đứt ở
dưới. Tám quẻ bây giờ được viết thành bốn cặp (111,000) (101,010)
(100,011) và (001,110.)
Trong đồ h́nh tám quẻ tiên thiên biểu trưng cho tượng ta nhận thấy có
hai chiều chuyển dịch, thuận và nghịch với chiều kim đồng hồ ngày nay,
điều này ngầm giới thiệu nguyên lư sinh trưởng hoại diệt của vũ trụ.
Từ 111 quẻ Càn, vạch trên biến đổi thành 011 quẻ Đoài; đến vạch giữa
biến đổi thành 101 quẻ Ly; sau đến hai vạch trên và giữa biến đổi
thành 001 quẻ Chấn (ngược chiều kim đồng hồ.) Phía bên này từ quẻ Tốn
110 vạch trên biến đổi thành 010 quẻ Khảm; đến vạch giữa biến đổi
thành 100 quẻ Cấn, sau cùng hai vạch trên và giữa biến đổi thành 000
quẻ Khôn (thuận chiều kim đồng hồ.)
Tượng đă như vậy, c̣n
h́nh th́ sao? Đồ h́nh hậu thiên bát quái mô tả thực tế như sau: 111,
010, 100, 001, 110, 101, 000, 011. Trong đây ta thấy 111 (ṿng ngoài)
từ Nam đă sang vị trí Tây Bắc (ṿng trong), 000 từ vị trí Bắc chuyển
sang Tây Nam, 101 từ vị trí Đông chuyển sang Nam, 010 từ Tây chuyển
đến Bắc v.v…
[H́nh vẽ: Sự chuyển dịch bát quái từ thời Phục Hi (ṿng ngoài) sang
thời Văn Vương (ṿng trong) của www. divine.com.tw]
Trong một bài khác,
người viết sẽ tŕnh bày quan điểm về Bát quái ngũ hành để góp phần
trong việc truy nguyên tác giả của Kinh Dịch.
5. Các vấn đề cần quan tâm của khoa phong thủy:
a.
Nguyên tắc hệ thống hoàn chỉnh: Hoàng Đế Trạch Kinh chủ
trương “lấy h́nh thế làm thân thể, ng̣i nước làm huyết mạch, đất
đai làm da thịt, cây cỏ làm râu tóc, nhà cửa làm quần áo, cửa nẻo làm
dây đai, nếu hội đủ các điều này, là điều rất tốt.” Xem thế thấy
từ xưa con người đă được quan niệm như trung tâm của vũ trụ, điểm giao
hội của thời không, và được môi trường chung quanh bao trùm che chở.
Có điều sự che chở này phảI do con người chọn lựa, v́ điều kiện thiên
nhiên vô tư và khách quan cho tất cả mọi loài, không thiên vị. Chọn
lựa thế nào? Sẽ được tŕnh bày ở dưới trong phần bốn đại cuộc.
b.
Nguyên
tắc nhân địa chế nghi:
Căn cứ vào bối cảnh mà thay đổi cho phù hợp với điều kiện sinh hoạt,
tùy theo địa thế mà kiến trúc cho thích hợp. Ví dụ ở miền cao, nhiều
rắn rết, làm nhà sàn trên ở dưới nuôi gia súc; ở vùng động đất, dung
vật liệu nhẹ để làm nhà; nóng nực dùng phương pháp điều hoà không khí
để tạo thoải mái cho nơi ăn ở, làm việc…
c.
Nguyên
tắc dựa núi gần sông:
Ở vùng có núi đồi, nên dựa lưng vào núi để ngăn bớt tác dụng của gió;
núi bao quanh th́ lập nhà ở nơi lũng, núi đơn lẻ th́ lập nhà ṿng
quanh. Gần sông ng̣i th́ chọn phía bên phải của ḍng chảy để ḍng
nước bao quanh bên trái, hoặc chọn phía đất bồi mà làm nhà.
d.
Nguyên
tắc xem xét h́nh thế khu vực:
Có thể xem sự tươi tốt của cây cỏ trong vùng mà xác định được nơi ḿnh
muốn ở có thuận lợi hay không, xem đường xá giao thông có thuận tiện
hay trở ngại, chợ búa trường học nhà thương và sở làm cũng là một
trong những điểm cân xét đến khi muốn chọn nơi mà ở.
e.
Nguyên
tắc địa chất:
Tránh những khu vực có những quặng mỏ mà phóng xạ do tác dụng phân hủy
của không khí có thể xâm hại, tránh những vùng hay bị ngập lụt, động
đất, thiên tai hay nhiều vấn đề xă hội.
f.
Nguyên
tắc thoáng đăng:
Nhà ở nên nằm giữa cuộc đất, xung quanh thoáng đăng không bị ngăn che
ánh sáng và sinh khí. Trong một bài viết trước đă tŕnh bày qua về
nguyên tắc cân bằng phiếm định, căn nhà nằm giữa cuộc đất giúp cho tác
dụng của các trường lực cân bằng hơn nằm lệch về một phía.
g.
Nguyên
tắc thuận chiều sinh khí:
Quan sát chiều nước thoát khi trời mưa trước nhà ta có thể nhận ra
chiều vận hành của sinh khí để tiếp nhận vào căn nhà ḿnh ở. Sự tiếp
nhận này nên từ tốn, không nên đột ngột. V́ thế những nhà nằm ngay ngă
ba, có đường đâm thẳng vào thường không được ưa chuộng, hoặc người ta
làm ngơ vào (lai lộ) có h́nh ṿng cung để giảm tác dụng xung sát của
khí. Cùng trong lư đó, cầu thang lên gác tránh mở thẳng ra cửa chính.
Chiều nước thải thoát ra khỏi nhà cũng nên thuận vớI chiều thoát của
hệ thống chung, tránh những khí độc xông ngược vào nhà.
h.
Nguyên
tắc sửa đổi:
Không phải tất cả những căn nhà đều may mắn hội đủ những ưu điểm kể
trên, nên dung nguyên tắc này để sửa đổi môi trường sống cho phù hợp
vớI t́nh trạng sức khoẻ, sinh hoạt là điều con người cần làm khi muốn
định cư lâu dài tại một nơi chốn nào.
6. Các trường phái phong thủy:
Phong thủy được chia làm hai nhánh, dương cơ (trạch) và âm
phần (mộ.) Khoa dương cơ giải quyết những vấn đề trong thực tại cuộc
sống, những sự kiện và hiện tượng có thể nh́n thấy trong tương quan
với môi trường cư trú, kết qủa trước mắt. Ngược lại khoa âm phần xử lư
những vấn đề liên quan đến người quá văng, những sự kiện và hiện tượng
không thể nh́n thấy bằng mắt thường như địa mạch, mộ huyệt, và tác
dụng chậm trễ xảy ra sau nhiều năm và chỉ kiểm chứng vằng cảm nhận hơn
là thực tế.
Theo Từ Văn Siêu, chủ biên mạng Trú Trạch của Trung Hoa, có
hai ḍng chính là phái H́nh Thế và phái Lư Khí. Mỗi ḍng
lại chia thành những nhánh nhỏ hơn. Phái H́nh Thế chia làm ba nhánh:
Loan Đầu, H́nh Tượng và H́nh Pháp. Phái Lư Khí chia làm
ít nhất mười bốn nhánh: Bát Trạch, Mệnh Lư, Tam Hop, Phiên Phi, Phi
Tinh, Ngũ Hành, Huyền Không, Bát Quái, Cửu Tinh Phi Bạc, Kỳ Môn, Tam
Yếu, Nhị Thập Tứ Sơn, Tinh Tú, và Kim Tỏa Ngọc Quan. Mỗi
phái chú trọng một trong các nguyên lư của khoa phong thủy hơn những
nguyên lư khác và đă thu thập những kinh nghiệm đáng kể nhưng vẫn chưa
giải thích được toàn bộ các sự kiện một cách hệ thống và khoa học.
Dưới đây là một vài nét sơ lược về các phái đă nêu trên:
a. H́nh Thế:
Phát nguyên từ quan niệm của Quản Lộ và Quách Phác, chú
trọng địa lư h́nh thế, chuyên dùng các yếu tố như long, huyệt, sa,
thủy, hướng để luận tốt xấu. Ba nhánh nhỏ là:
i.
Loan Đầu:
chú trọng đến tính chất tự nhiên của h́nh thế. Long là toàn bộ
dăy núi đồi sông suối bao quát từ khu vực ngược đến đầu nguồn. Sa
án là những g̣ đụn, địa h́nh bốn phía chung quanh khu vực.
ii. H́nh Tượng:
quan sát h́nh tướng của núi non cảnh vật để đặt tên, theo tên gọi mà
ngầm diễn tả ư nghĩa của khu vực. Ví dụ Núi Voi Phục, Núi Vọng Phu,
Núi Sư Tử, Hàm Rồng, Thiếu Nữ Soi Gương, v.v…
iii. H́nh Pháp: tổng hợp quan niệm của hai phái trên, phối hợp
nhận biết về h́nh thế tự nhiên và liên tưởng. Ví dụ: có một con đường
xông vào khu vực, đặt tên là một mũi tên xuyên vào tim (nhất tiễn
xuyên tâm.)
b. Lư Khí: C̣n có tên là Ốc Trạch Phái hay
Tam Nguyên Lư Khí.Chủ trương dùng âm dương, bát quái, ngũ hành, Hà
đồ, Lạc Thư, tinh tượng, thần sát, nạp âm, kỳ môn, lục nhâm và các
loại thuật số để suy đoán sự tốt xấu của công tŕnh. DướI
đây xin liệt kê một vài nhánh nhỏ:
i. Bát Trạch: với hai đặc điểm: dùng tọa sơn (lưng)
của căn nhà phối hợp với du tinh của hướng (mặt tiền) để đoán tốt xấu
và chia làm hai nhóm nhà thuộc đông và tây. Căn cứ vào năm sinh của
người mà chia thành hai nhóm mệnh đông và tây. Phối hợp người đông
mệnh nên ở nhà đông tứ trạch và ngược lại.
Tám du tinh là Phục Vị
(ở tại chỗ), Thiên Y (trời chữa bệnh), Sinh Khí (sức
sống) và Diên Niên (sống dai) là bốn sao tốt, Ngũ Qủy
(năm loại qủy), Tuyệt Mệnh (hết số), Hoạ Hại (tai vạ) và
Lục Sát (sáu cách giết).
Ví
dụ: nhà lưng phương bắc, mặt trước hướng nam là được du tinh Diên Niên
đáo hướng, thuộc đông tứ trạch, nên mở cửa, đặt chủ pḥng ở các phương
bắc, đông và đông nam.
ii.
Mệnh Lư: dùng mệnh của chủ nhà phối hợp với vị trí của hai mươi
bốn sơn và ṿng sao luân chuyển của huyền không, dung trang hoàng, bố
cục, màu sắc phù hợp với tính chất ngũ hành của từng khu vực.
iii
:Tam Hợp và Nhị Thập Tứ Sơn đầu: Dùng sơn thủy làm chủ. Phối
hợp hai mươi bốn sơn của tọa trạch, mười hai sao của ṿng Trường Sinh
với các h́nh thế núi song, công tŕnh xung quanh để định cách cục tốt
xấu của căn nhà. Phái này thoát thai từ khoa âm phần.
iv: Phiên
Phi: c̣n gọi là Hoàng Thạch Công Phiên Phi phái. Dùng bát
quái nạp giáp chuyển thành Cửu Tinh (chín sao) là Tả Phù, Hữu Bật, Phá
Quân, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Văn Khúc, Lộc Tồn, Tham Lang, Cự Môn. Tùy
vị trí, mỗI sao có những tác dụng tốt và xấu.
v. Huyền
Không Phi Tinh: Dùng nguyên vận phối hợp nguyên bàn cửu tinh, sơn
hướng, sơn thủy, bố cục bên trong để định chu kỳ hưng suy của khí
trường trong từng khu vực. Cửu Tinh là Nhất bạch Tham Lang,
Nhị hắc Cự Môn, Tam bích Lộc tồn, Tứ lục
Văn khúc, Ngũ Hoàng Liêm trinh, Lục bạch Vũ khúc,
Thất xích Phá quân, Bát bạch Tả phù và Cửu
tử Hữu bật.
vi. Tinh
Tú: Phối hợp tính chất ngũ hành của hai mươi tám v́ sao và sơn
hướng của căn nhà mà đoán tốt xấu.
Là người t́m hiểu về phong thủy, ta nên suy luận căn cứ trên thực tế, các chủ trương trên chỉ là những mốc hướng dẫn, cần lựa chọn những điểm hay, loại bỏ những điểm không phù hợp, tránh những tin tưởng thiếu căn cứ để không phải thất vọng về lâu về dài.
7. Vai tṛ của bốn mặt
quanh nhà ở hay phần mộ (tứ đại cuộc)
Quan niệm này
phát xuất từ thời Tần Hán bên Trung Hoa, coi trọng h́nh thế bốn mặt
quanh mộ huyệt hay nhà ở được thể hiện qua bốn tên gọi Thanh Long,
Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ là tên chữ của bốn loài thú rồng
xanh, cọp trắng, chim đỏ, rùa đen.
Huyền Vũ là tên
gọi của h́nh thế đất đai sau lưng căn nhà, cần cao ráo kín đáo như tấm
khiên che, như chiếc gối kê đầu (hậu chẩm.) Huyền Vũ tượng trưng cho
những sự hỗ trợ ngấm ngầm sau lưng ta, tượng trưng cho hậu vận.
Chu Tước là tên
gọi của h́nh thế đất đai trước mặt, nên bằng phẳng, sáng sủa không bị
ngăn che, nếu có bị ngăn che không được chắn hết tầm nh́n của không gian
trước mặt, như chiếc bàn (tiền án.) Chu Tước tượng trưng cho việc giao
tiếp đối ngoạI, hiện trạng và tương lai gần.
Thanh Long là
tên gọi của h́nh thế đất đai bên tay trái của căn nhà, cần cao ráo thông
suốt uốn lượn bao ṿng dài rộng. Thanh Long chủ về cơ hội, vận may, văn
chương khoa bảng, khí cần vận động.
Bạch Hổ là tên
gọi của h́nh thế đất đai bên tay phải của căn nhà cũng cần dài rộng,
nhưng không nên cao mà phải thấp. Bạch Hổ chủ về uy lực, vơ nghiệp, khí
cần tích tụ, tránh tán thất.
Trong các sách
như Trú Trạch Tiêu Chuẩn, Dương Trạch Thập Thư, Trú Trạch Mô Thức
khái niệm hậu sơn, tiền thảo, tả tŕ, hữu cương đă phổ biến khắp
trong dân gian như là những điều kiện tốt cần có của một căn nhà.
Tiến sĩ Nông
Nghiệp Trần Di Khôi của Trung Hoa giải thích nguyên nhân của khái niệm
này như sau:
Đất nước Trung
Hoa nằm ở Bắc bán cầu nên nhà ở thường chọn quay hướng Nam (toạ Bắc
triều Nam) để tránh khí hậu khắc nghiệt của vùng cực thổi về, đón ánh
sáng và hơi ấm từ vùng xích đạo chiếu lên. Ngoài ra, lịch sử Trung Hoa
ghi lạI những cuộc chiến tranh với Hung Nô, Khuất Liêu, Kim là những
nước nằm ở phiá Bắc, nên sau lưng có núi hiểm trở che chắn là hàng rào
thiên nhiên để pḥng vệ hữu hiệu mỗI khi có loạn động.
Kinh tế Trung
Hoa ngày xưa chú trọng nông nghiệp, nhà ở thường gần với ruộng đồng. Nhà
ở nh́n về hướng Nam nên mặt trời sẽ lên ở phía tay trái, nên phía tay
trái cần có sông nước lưu chảy (tả tŕ hữu khâu; tả khê lưu hữu
trường đạo; tả cao hữu đê) để gia tăng sự vận chuyển của sinh khí
(ứng dụng của thế năng, động năng), tạo sự thoải mái cho môi trường làm
việc trong ngày gia tăng hiệu suất của công việc; ngược lại phía tay
phải là hướng tây chịu ánh nắng chiều nóng bức, sinh khí suy giảm, cần
bảo tồn để không bị tiêu hao sức lực, nên tán khí một cách chậm răi.
Theo nghiên cứu khoa học, trong ánh nắng chiều, lượng tia hồng ngoại và
tử ngoại trong ánh sáng lên đến 72%, cần thiết cho các phản ứng quang
học trong cây cỏ thảo mộc, đặc biệt các loại được gieo trồng trong nông
nghiệp, giúp cho việc khai hoa kết trái rất nhiều. Nếu phía Tây bị che
chắn, năng suất cây trồng sẽ giảm sút, côn trùng sẽ phát triển mạnh hơn
v́ lượng tia tử ngoại cũng bị giảm sút, gây nên những loại bệnh mà ngày
xưa không rơ nguyên do (bạch hổ đương đầu- phương tây cao,
hữu tai ương chi hoạn.)
8. Thay cho lời kết
Vũ trụ quan
Trung Hoa, đại biểu cho đông phương, được h́nh thành và phát triển trên
nguyên lư âm dương ngũ hành bao gồm ba lănh vực thiên văn địa lư và nhân
thể. Con người ngày xưa phải học quán tam tài mới được gọi là
Nho Sĩ, rất được coi trọng trong thể chế xă hội bấy giờ, tiến vi
quan, thoái vi sư. Riêng Khoa Kham Dư sau thoái hoá thành khoa phong
thủy, được lưu tâm v́ những ứng dụng của nó trong xă hội rất rộng răi,
song cũng v́ thế mà tính chất hệ thống và luận lư của nó càng ngày càng
bị thu hẹp. Người t́m hiểu để áp dụng đă giản trừ chúng vào những công
thức, ca quyết mà không t́m hiểu hết nguyên lư. Người truyền thụ cũng
muốn dấu diếm. Hơn nữa từ khi được giới vua quan chú tâm, những tinh hoa
không c̣n được phép phổ biến trong dân gian. Những lời dặn ở phần tựa
của các loại kinh điển thường luôn luôn kèm theo câu thận vật truyền
phi nhân , cẩn thận không nên truyền thụ cho những người thiếu nhân
nghĩa hay người không trong giai tầng của ḿnh.
Khoa Phong Thủy
đến Việt Nam trong những dịp Trung Hoa xua quân xâm chiếm đất đai và
những đợt di dân cuối những triều đại Minh Thanh. Một vài nhân vật Việt
Nam nổi tiếng trong lịch sử đă rất thông thạo về khoa lư số nói chung và
Địa Lư nói riêng như Lư Thường Kiệt qua bài Nam quốc sơn hà, Nguyễn Bỉnh
Khiêm qua câu Hoành Sơn nhất đái. Ta cũng nghe những truyền thuyết về
Thánh Địa Lư Tả Ao. Song trong dân gian, những người hành nghề địa lư
tài tử đă lưu truyền những giai thoại về các cuộc đất như Mănh Hổ
xuất sơn, Thanh Xà nhập địa, Cửu Long khán tỉnh trên đất nước Việt
Nam. Trước năm 1975, những đồn đoán về cuộc đất phát phú của gia đ́nh
ông Lư Long Thân tại Thủ Đức, long mạch tại khu vực cư xá Thanh Đa,
những cuộc đất phú hào trong phạm vi tỉnh B́nh Dương, địa mạch Khu Dinh
Độc Lập và sự trấn yểm theo chỉ thị của TT Thiệu v. v… đă là đề tài cho
các câu chuyện trà dư tửu hậu và tăng thêm vẻ huyền bí của câu chuyện,
dẫn con người vào ṿng mù mờ của mê tín.
Hiện nay tại
Saigon cũng vẫn c̣n những cao thủ về phong thủy tinh thông thập bát ban
vơ nghệ, đang cố gắng chống trả những tấn công để bảo vệ đất nước khỏi
sự xâm nhập của ngoại nhân về lâu về dài. Nhưng xét theo lư nhân quả, tổ
tiên Việt Nam đă gieo nhân xoá sổ hai nước Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp
từ những thế kỷ trước, th́ ngày nay, con cháu là chúng ta phải trả quả
lưu vong biệt xứ, gái trai đều phải chịu lận đận long đong. Điều cần lưu
ư là tâm nguyện của chúng ta, là nơi sẽ phát xuất và thu nhận các nội và
ngoại lực, chúng ta đă chuẩn bị sẵn sàng chưa cho một sự chuyển ḿnh,
sánh vai cùng thiên địa trong bô ba tam tài hay nói cụ thể trong thời
đại (thiên) và thế giới (địa) hôm nay?
pnt
|