Thầy Nguyễn Khánh Do - Giáo Sư Toán Học

 

Luận Về Nhân Vật Quan Công

của Truyện Tam Quốc Chí

Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do
 

1. Tam Quốc Chí của La Quán Trung.

  Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, gọi vắn tắt là Tam Quốc Chí,
của La Quán Trung là  một tác phẩm lớn của văn học Trung quốc, lớn về nhiều khía cạnh: h́nh thức,  nội dung,
gía trị văn chương, và ảnh hưởng đối với dân tộc. Về
h́nh thức,  đó là một tác phẫm đồ sộ gần hai ngàn
trang. Về nội dung, đó là một truyện  dă sử ghi dấu
khoảng thời gian ngót ba phần tư thế kể của thời "Tam
Quốc"  bên Tàu, với hàng nhiều chục nhân vật chính và nhiều trăm nhân vật phụ. Các  diễn biến, t́nh tiết,... phức
tạp và nhiều đếm không xuể, được ng̣i bút La  Quán
Trung diễn tả thần t́nh, sắc sảo, không rối loạn. Về
gía trị văn  chương cũng như gía trị tổng quát, việc
Thánh Thán chọn và xếp Tam Quốc Chí  đứng đầu "thất tài
tử thư" của văn học Trung Quốc đủ là một bảo đảm
(1).

Người ta thấy rơ ảnh hưởng của Tam Quốc Chí đối
với dân tộc Trung Hoa qua  sự kiện nhân vật Quan Vũ được
người Hoa tôn lên hàng thánh và lập đền thờ.  Trong hàng
nhiều trăm nhân vật của Tam Quốc Chí, người Hoa đời
sau lọc ra 3  nhân vật đặc sắc nhất gọi là 3 đại kỳ
nhân: đệ nhất gian hùng là Tào Tháo,  đệ nhất mưu trí
là Khổng Minh và đệ nhất trung nghĩa là Quan Vũ. Trong ba 
kỳ nhân đó, Quan Vũ được tôn sùng hơn cả. Là nhân vật
trong tác phẩm được  La Quán Trung tô điểm, đưa lên
hàng thánh, Quan Vũ thực ra là một kẻ không  có danh ǵ trong
chính sử Trung Quốc. Thời xưa ở miền Hoa Bắc người ta
thờ  Nhạc Phi và ở Hoa Nam người ta thờ Quan Công trong
vơ miếu (2). Sự kiện một  nhân vật tiểu thuyết được
sùng bái, tôn thờ như vậy không phải chỉ hiếm có  trong
lịch sử Trung Quốc mà c̣n hiếm có cả trong lịch sử
nhân loại. Nhạc  Phi là một danh tướng có thực, từng
chống xâm lăng phương bắc thời nhà  Tống, được người Hoa
tôn thờ là điều có thể hiểu, nhưng Quan Vũ chỉ là
một  nhân vật tiểu thuyết, hoặc nếu là một nhân vật
thực th́ cũng không có công  trạng ǵ đối với dân tộc
Trung Hoa, tại sao lại được thánh hóa như vậy? Sự  kiện
này có một nguồn gốc sâu xa trong lịch sử mà ta sẽ xét
sau đây. 

 2. Tại sao Quan Vũ được tôn lên hàng thánh?

  Nhà Thanh vốn là một dị tộc từ phương bắc xâm chiếm
Trung Quốc và đặt nền  cai trị. Vào thời gian đầu
người Hoa chống đối rất kịch liệt. Các tổ chức  phản
Thanh phục Minh nổi lên ở nhiều nơi. Nhưng mấy vua đầu
của nhà Thanh  (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính và Càn Long) là
những người thông minh, chủ  trương gây thiện cảm với
dân bản xứ bằng chính sách cai trị mềm dẻo, và thực
t́nh chăm  lo cho dân được sống yên ổn. Họ kiểm soát
cẩn thận việc hành chính ở các  địa phương, trừng
phạt các tham quan, diệt các tệ nạn hà hiếp dân, giảm 
thuế má, xá tù tội, giải phóng ách nô lệ cho những kẻ bị
bạc đăi v́ thành  kiến xă hội, v.v... (3). Đối với
giới sĩ phu họ mở nhiều khoa thi để tuyển  chọn nhân tài
cho tham dự việc cai trị. Tập trung các danh sĩ về kinh
đô để  làm những công tác văn hóa đồ sộ, với hậu ư
vừa để dễ kiểm soát hành động,  vừa để làm mất ư
chí chống đối chính quyền, đồng thời ngấm ngầm tiêu
hủy  những tác phẩm đề cao tinh thần dân tộc (4). Chính
do những chủ trương này  mà có chuyện thánh hóa Quan Vũ.
Các hội kín phản Thanh phục Minh chủ trương  đề cao tinh
thần trung nghĩa của Quan Vũ, lập miếu thờ để làm chỗ
ngụy  trang cho các cuộc hội họp chống Măn Thanh. Thanh
triều (thời vua Thuận  Trị) bèn tương kế thổi phồng
địa vị của Quan Vũ, đưa ông ta lên hàng thánh,  bằng cách
giáng chỉ cho toàn quốc lập miếu thờ - kể cả ở Măn
Châu, nước gốc  của nhà Thanh. Vua Càn Long đẩy mạnh thêm
sự sùng bái trong giới người Hoa  bằng cách sắc phong
Quan Vũ là "Trung Nghĩa Vũ Thần Đại Đế". Việc thờ Quan 
Vũ tiến thêm một bước biến thành thói cúng bái mê tín.
Đền thờ Quan Công  lúc nào cũng có khói hương nghi ngút;
người ta đến không phải chỉ để chiêm  bái mà c̣n để
cầu may, xin phúc, thề thốt,..."Đức thánh Quan" trở thành
một  thần linh được rước cả về nhà để thờ, và
người thờ tin rằng "ngài" có thể  ban lộc, xá tội hoặc
vật chết những kẻ nhạo báng! Người ta có thể thắc
mắc:  tại sao biết các hội phản Thanh phục Minh dùng miếu
thờ Quan Công làm nơi  họp kín, chính quyền nhà Thanh
không cho quân vây bắt để tiễu trừ, hoặc cho  gián điệp
trà trộn vào để phá vỡ mà lại chọn phương cách, có
vẻ mâu thuẫn  và khó hiểu, là thúc đẩy thêm sự sùng
kính Quan Vũ? Chính ở điểm này người  ta nhận ra sự thông
minh, khôn ngoan và có phần thâm hiểm của bốn vị vua 
đầu của nhà Thanh. Họ đă chọn chiến lược thổi phồng
Quan Công để phá vỡ ư  chí phục Minh của người Hoa một
cách không đổ máu thay v́ chiến thuật khủng  bố để
tiêu diệt các tổ chức chống đối. Chiến lược này vừa
giảm căm thù  trong ḷng người Hoa vừa gây thêm thiện
cảm v́ đă đề cao một nhân vật của  dân bản xứ. Việc
đề cao Quan Vũ, như vậy, vuốt ve tự ái dân tộc cho
người  Hoa, lại tránh được sự đề cao tinh thần dân tộc
v́ Quan Vũ chẳng là một anh  hùng cứu quốc hay chống xâm
lăng ǵ cả mà chỉ là một... nhân vật tiểu  thuyết!
Sự mê tín, sùng bái Quan Công càng nhiều càng làm cho dân Hoa
quên  dần chuyện phân biệt Măn, Hán. Một sự kiện đáng
lưu ư nữa là khi chiếm  Trung Quốc, cũng như thời gian sau
đó, quân đội nhà Thanh rất hùng mạnh.

Các vua Khang Hy, Ung Chính, Càn Long cho quân chinh phục nhiều
nước lân  bang, mở rộng bờ cơi Trung Quốc, khiến đế
quốc Trung Quốc chưa thời nào  rộng lớn bằng. Những tổ
chức phản Thanh phục Minh v́ vậy chỉ gây rối chứ 
không thể là mối đe dọa sự nguy vong của triều Thanh. Và
cũng v́ thế Thanh  triều đă chọn giải pháp mềm dẻo đối
phó với họ để thu phục nhân tâm. Những  chủ trương
khôn ngoan của 4 vua đầu nhà Thanh qủa thật đă được
đền đáp xứng  đáng: sau một thế kỷ rưỡi do người Thanh
cai trị, tinh thần bài Măn của  người Hoa đă giảm
nhiều. Người Hoa đă chấp nhận nhà Thanh như một ḍng họ 
của Trung Quốc, nhiều nhân tài người Hoa như nhóm Khang
Hữu Vi, Lương Khải  Siêu, v.v.. đă thật tâm cộng tác với
Thanh triều, giúp đối phó với những  khó khăn do các
nước Tây Phương và Nhật Bản gây ra trong thế kể thứ 19.   

 3. Quan Vũ của Tam Quốc Chí. 

 Theo Tam Quốc Chí của La Quán Trung, Quan Vũ tên chữ là
Thọ Trường, sau đổi  là Vân Trường, quán làng Giải
Lương, huyện Bồ Châu, tỉnh Hà Đông. V́ trót  giết một kẻ
có thế lực nên sợ bị tù phải bỏ xứ mà đi. Quan Vũ
cùng với Lưu  Bị (thuộc ḍng hoàng tộc nhưng đă biến
thành dân gĩa, làm nghề buôn dép và  dệt chiếu) và Trương
Phi (một chủ quán bán thịt heo và rượu) kết nghĩa anh 
em để cùng chung lo việc dẹp loạn và giúp nhà Hán gây
lại uy thế. Trải qua  nhiều gian khổ,  nhờ có sự phụ
giúp tích cực của 3 quân sư Từ Thứ, Khổng Minh,  Bàng
Thống, nhất là Khổng Minh, cùng các tướng tài Triệu Vân, Mă
Siêu, Hoàng Trung, Ngụy Diên,  bộ ba Lưu-Quan-Trương dành
được đất Ba Thục ở phía tây Trung Quốc, cùng với  họ
Ngô ở phía đông và họ Tào ở phía bắc lập thành thế
chân vạc 3 nước Ngụy  Thục Ngô, đó là thời "Tam Quốc"
bên Tàu (thế kể thứ 3). Sau khi lên ngôi  Lưu Bị phong cho
Quan Vũ đứng đầu "ngũ hổ tướng" gồm Quan Vũ, Trương
Phi,  Triệu Vân, Mă Siêu, Hoàng Trung, và cho trấn ở Kinh
Châu, căn cứ địa của  Lưu Bị trước khi chiếm Ba Thục.
Qua bút pháp của La Quán Trung, Quan Vũ là  một tướng có
nhiều ưu điểm: giỏi cả vơ lẫn mưu, tính thẳng thắn,
cương  nghị, giữ lễ nghĩa, ân oán phân minh, biết phục
thiện, và luôn luôn tận  trung với chủ. Nhưng cũng có
nhiều nhược điểm như thiếu thâm trầm, hiếu  thắng, kiêu
căng, thích được khen, ưa so đọ cá nhân,...

  4. Quan Công trong đại chúng người Hoa và người Việt

  Tục thờ kính Quan Công được người Hoa truyền sang Việt
Nam. Đền thờ Quan  Công ở Chợ Lớn có đôi câu đối sau
đây:   

- Sinh Bồ Châu, sự Dự Châu, trấn Kinh Châu, chiến Từ
Châu, vạn cổ thần  châu hữu nhất;   

- Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, thích Mạnh Đức, sát
Bàng Đức, thiên thu  thánh đức vô song.   

 Dịch:

    - Sinh Bồ Châu, thờ Dự Châu, đóng Kinh Châu, đánh Từ
Châu, vạn cổ thần  châu chỉ một;   

- Anh Huyền Đức, em Dực Đức, tha Mạnh Đức, giết Bàng
Đức, ngàn năm thánh  đức không hai. (5)   

Một sự thật có thể làm ngạc nhiên nhiều người nhưng
khó chối căi là từ thời  nhà Thanh trở về sau người
Hoa tôn sùng Quan Công hơn Khổng Tử nhiều! Khổng  Tử chỉ
được giới sĩ phu, thuộc thành phần thiểu số, thờ ở
văn miếu và hàng  năm chỉ được họ cúng tế một lần.
Quan Công, trái lại, được đông đảo dân, có  lẫn cả
nhiều sĩ phu, sùng kính, lập đền thờ ở nhiều nơi, thờ
cả trong nhà,  và cúng bái thường xuyên. Một sự kiện
khác mà Khổng Tử không thể nào sánh  với Quan Công là sự
kính chuộng của đại chúng thể hiện qua sự tŕnh diễn 
điển tích trên sân khấu, phương tiện quảng bá hấp
dẫn và hữu hiệu ở cổ  thời. Không thấy có tuồng tích
nào liên quan tới tiểu sử Khổng Tử nhưng  tiểu sử của
Quan Công th́ được đặt thành tuồng có đến một chục
vở! Có lẽ  không có nhân vật nào khác của Trung Quốc
có tiểu sử được soạn thành tuồng  tích nhiều như vậy!
Việc diễn các tuồng về nhân vật Quan Công cũng có chỗ 
lạ lùng so với những nhân vật khác. Trong các vở tuồng
này người kép đóng  vai Quan Công phải giữ ǵn thân thể
sạch sẽ, kiêng cữ đủ thứ. Khi trang  điểm để ra
tuồng phải tô mặt đỏ chót như son, đeo râu dài thâm thượt
(6).

Trước khi vai Quan Công xuất hiện lần đầu, từ trong
cánh gà của sân khấu  người ta phải đốt một nén vàng lá
để cúng, rồi người kép lấy một khăn che  mặt, từ
từ bước ra, chờ cho nén vàng cháy hết mới được bỏ
chiếc khăn để cho  khán gỉa thấy mặt. Đó là một dị
đoan, một thói quen các ban tuồng đều giữ  rất nghiêm, v́
sợ nếu sai quấy vai kép sẽ bị "ngài" vật chết! Có bao
nhiêu  tuồng tích về Quan Công ở Trung Quốc th́ không rơ
nhưng trong giới tuồng  Tàu, hát chèo cổ, hát bội ở
Viết Nam có thể kể ít vở sau đây:

- Đào viên  kết nghĩa, diễn sự tích Lưu Bị, Quan Vũ,
Trương Phi kết nghĩa anh em ở vườn  đào của Trương Phi.

- Tam anh chiến Lă Bố, diễn tích ba anh em  Lưu-Quan-Trương
hợp sức đánh nhau với Lă Bố.

- Quan Công thất thủ Hạ B́, diễn tích Quan Vũ bị Tào
Tháo vây ở thành Hạ B́, đành phải hàng.

- Quan Công pḥ nhị tẩu, diễn tích Quan Công dẫn hai chị
dâu (Cam và Mi phu nhân, hai vợ của Lưu Bị) về kinh đô
sau khi thua ở Hạ B́.

- Quan Công quá ngũ quan trảm lục tướng, diễn tích Quan
Vũ bỏ Tào đi t́m Lưu Bị, qua 5 cửa quan chém 6 tướng của
Tào Tháo.

- Hoa Dung tiểu lộ, diễn tích Quan Vũ đóng quân ở
đường hẻm Hoa Dung, chặn đường chạy trốn của Tào Tháo.

- Quan Công đơn đao phó hội, diễn tích Quan Vũ cùng dăm
cận tướng can đảm vác đao qua sông gặp các tướng của
Giang Đông ở bến Lục Khẩu.

- Quan Công thủy chiến Bàng Đức, diễn tích Quan Vũ đánh
nhau với Bàng Đức.

- Quan Công cạo xương chữa thuốc, diễn tích Quan Vũ ngồi
đánh cờ, đưa tay cho Hoa Đà lóc thịt, cạo chỗ xương
bị tên có nọc độc bắn trúng.

- Quan Công hiển thánh, diễn tích Quan Vũ hiển linh ở núi
Ngọc Toàn sau khi bị Đông Ngô bắt và giết.

5. Quan Vân Trường, một trung nghĩa đại kỳ nhân?

Khi đề cập tới những ưu khuyết điểm của nhân vật
Quan Vũ ta cần lưu ư là đang nói về một nhân vật tiểu
thuyết, những hay dở của nhân vật đó đều do ng̣i bút La
Quán Trung tạo nên. Các dữ kiện, v́ vậy, đều được
rút ra từ tác phẩm Tam Quốc Chí. V́ Quan Vũ được đề cao
là đệ nhất trung nghĩa kỳ nhân nên trước hết ta hăy
nhận xét về hai đức tính "trung" và "nghĩa" của Quan Vũ;
sau đó sẽ đề cập tới những ưu khuyết điểm khác.

Vào thời Tam Quốc, chữ "trung" được quan niệm ra sao?
Thời Xuân Thu, Khổng Tử (giữa thế kỉ thứ 6 trước Tây
Lịch) quan niệm "trung" là giữ một ḷng với vua, nhưng vua
phải ra vua. Nếu vua biết dùng "lễ" sai khiến bày tôi th́
bày tôi phải "trung" với vua (7). Về sau Tử Tư, cháu nội
của Khổng Tử, nhấn mạnh thêm: vua không phải chỉ cần
giữ lễ với bày tôi mà c̣n phải kính trọng bày tôi
nữa, có thế bày tôi mới phải hết ḷng trung với vua. Tới
thời Chiến Quốc, Mạnh Tử (cuối thế kể thứ 3 trước
Tây Lịch) quan niệm mạnh mẽ hơn nữa: dân là quí, đất
nước đứng sau, vua là nhẹ. Bày tôi chỉ cần trung với
vua nếu vua biết tôn trọng quyền lợi của dân của nước.
Nếu vua làm trái lại th́ bày tôi có quyền trừ khử (8).
Thời nhà Hán, sau biến cố chôn nho đốt sách của Tần
Thủy Hoàng, đám Hán Nho v́ mục đích siểm nịnh cầu vinh
đă biến đổi quan niệm về "trung" thành hết ḷng hết
dạ với vua một cách mù quáng (9). Sống ở thời Hán mạt
(đầu thế kể thứ 3), Quan Vũ đă giữ chữ trung như thế
nào? Hiến Đế, vị vua cuối cùng của nhà hậu Hán, nhu
nhược, luôn luôn bị những viên thừa tướng khống chế cho
đến lúc mất ngôi, một bóng mờ trong truyện Tam Quốc
Chí, là người Quan Vũ không có một cử chỉ hay hành động
nào tỏ ra là muốn giữ ḷng trung cả. Chữ trung theo quan
niệm của Khổng Tử không được Quan Vũ áp dụng ở đây.
Trái lại có một sự kiện chứng tỏ Quan Vũ đă không
giúp nhà Hán, qua đại diện là vua Hiến Đế. Tào Tháo làm
thừa tướng, là một gian thần hiếp vua. Khi đánh Đông
Ngô, bại trận, phải dẫn đám tàn quân chạy vào đường
hẻm Hoa Dung. Quan Vũ được lệnh của quân sư Khổng Minh
dẫn quân chẹn đường để tiêu diệt. Trước khi đi Quan Vũ
đă viết giấy cam kết nếu tha "quốc tặc" sẽ chịu chém
đầu, thế mà khi nghe Tào Tháo kể lể sự trọng đăi
thuở trước Quan Vũ đă tha ngay cho họ Tào. Chỉ v́ để
đền đáp t́nh riêng Quan Vũ đă bỏ trách nhiệm lớn lao chung,
có ảnh hưởng tới vận mệnh đất nước, và cơ đồ
của nhà Hán. Trong Tam Quốc Chí, Quan Vũ có nói "giang sơn
của nhà Hán há nhường tấc đất cho ai?" nhưng đó chỉ là
lời nói ngụy biện để khỏi phải trả đất chứ không
là "v́ nước". Cuộc khởi quân cùng Lưu Bị với mục
đích mang lại ổn định cho dân nếu tạm coi là "v́ dân" th́
có thể coi họ Quan được một phần nhỏ chữ trung theo
quan niệm của Mạnh Tử. Nhưng chữ trung này rất khiêm
nhượng, không hơn ǵ một số nhân vật đồng thời. Riêng
đối với Lưu Bị, quả thật trước sau như một, Quan Vũ
hết ḷng giữ dạ sắt son. Dù đang được Tào Tháo hết
sức trọng vọng, khi hay tin Lưu Bị ở với Viên Thiệu là
Quan Vũ đi t́m ngay. Cho nên có thể nói Quan Vũ hết ḷng
“trung thành với chủ” là Lưu Bị. Nhưng Lưu Bị không bao
giờ là vua của Trung Quốc, và lúc lên tới tột đỉnh vinh
quang họ Lưu cũng chỉ cai trị được một phần ba nước
Tàu. Vậy có thể hiểu là họ Quan đă giữ chữ trung theo
quan niệm của đám Hán nho. Hiểu như thế th́ họ Quan
cũng không hơn một số thủ túc thân tín khác của Lưu Bị
như Trương Phi, Triệu Vân, Khổng Minh, v.v... Tóm lại, xét
nhân vật Quan Vũ và quan niệm về chữ trung trong thời đại
của ông ta: trung với dân, trung với nước, trung với vua
và trung với chủ, Quan Vũ đă giữ chữ trung sau cùng. Phải
chăng đó là lư do người ta đă tôn ông lên hàng "đệ
nhất trung"? Hay v́ hậu ư thâm hiểm của nhà Thanh, đề cao
một kẻ trung thành với chủ lên hàng thánh để người Hoa
sùng bái mà quên đi cái trung đối với dân tộc và đất
nước? Người viết nhận là nghiêng về lư do sau.

Đó là đức trung của Quan Vũ, bây giờ ta xét tới đức
"nghĩa". "Nghĩa" theo nho gia là điều làm hợp với đạo lư,
với lẽ phải. Trong xă hội, con người làm trách nhiệm
của ḿnh v́ đạo lư mới gọi là đúng với nghĩa, nếu
làm trách nhiệm v́ lư do khác, dù trọn vẹn, vẫn là không
hợp nghĩa. Với quan niệm đó "nghĩa" đối lập  với
"lợi" (10). Nếu làm trách nhiệm lớn lao hợp với đạo lư và
ảnh hưởng tới  đại chúng th́ gọi là "đại nghĩa".
Với quan niệm của "nghĩa" theo nho giáo  th́ Quan Vũ chỉ giữ
được điều nghĩa nhỏ giữa cá nhân với cá nhân, như
nghĩa  bằng hữu, nghĩa chủ tớ, nhưng chẳng có ǵ gọi là
"đại nghĩa" để xứng với  cái danh đệ nhất trung nghĩa
kỳ nhân.

Sau đây ta sẽ xét đến những ưu khuyết  điểm khác của
Quan Vũ.

Về "dũng", Quan Vũ quả thật là có ư chí, can đảm và 
sức mạnh. Về can đảm, chuyện cắp đao sang phó hội ở
Giang Đông, hay chuyện  ngồi thản nhiên đánh cờ để cho
Hoa Đà lóc thịt trị thương là những thí dụ.

Về vơ nghệ, sức mạnh có lẽ Quan Vũ chỉ thua duy nhất
có Lă Bố.

Về "mưu",  Quan Vũ cũng có chút mưu lược, đôi lần bày
mưu thành công. Nổi danh nhất là  mưu khơi nước sông
Tương Giang làm úng thủy Phàn Thành do đó bắt được hai 
tướng của quân Tào là Vu Cấm và Bàng Đức. Nhưng tính
hiếu thắng, kiêu căng,  khinh địch cũng đă khiến Quan Vũ
thành thấp mưu, bại trận, làm hỏng đại sự.  Chính việc
thấp mưu, dốc quân đánh Phàn Thành, khinh thường tướng
trẻ Đông  Ngô là Lục Tốn mà Quan Vũ đă làm mất Kinh
Châu. Cho nên, về mưu, những  thành công nhỏ của Quan Vũ
không đủ bù lại với cái thấp mưu to lớn làm mất  đất
và hại thân.

Về "trí", Quan Vũ rất hẹp ḥi, thiển cận tuy có biết
phục  thiện. Khuyết điểm này cộng với tính hiếu thắng,
kiêu căng, ưa được tâng  bốc khiến Quan Vũ trở thành
kẻ nông nổi, ích kỉ, hám danh, khinh người, và  khinh
địch. Chính những nhược điểm này dẫn đến cái chết của
Quan Vũ, kéo  theo một chuỗi biến cố tai hại, nghiêm
trọng: mất Kinh Châu, Lưu Bị và  Trương Phi v́ nóng ḷng báo
thù cho ông ta nên cũng chết theo. Sau đây là  vài dẫn
chứng. Thói khinh địch khiến Quan Vũ nhiều lần bị tên
bắn. Một lần  được Hoàng Trung tha chết, cố ư bắn tên
vào chỏm mũ. Hai lần bị trúng tên  độc khi đánh Phàn
Thành, chỉ v́ thân đại tướng mà khinh xuất. Là trấn thủ 
Kinh Châu, coi một vùng rộng lớn, trách nhiệm quan trọng,
thế mà chỉ muốn  tỉ vơ để thỏa măn tính hiếu
thắng. Nghe Mă Siêu được khen là một dũng  tướng, lúc đó
đang ở với Lưu Bị tại Tây Thục, Quan Vũ bèn đ̣i tỉ vơ
với Mă  Siêu. Sau nhận được thư Khổng Minh vuốt ve tự
ái "...Mă Mạnh Khởi tuy hùng  dũng hơn người nhưng chỉ
đáng xếp vào hạng Kinh Bố, Bành Việt, đua tranh  với
Dục Đức th́ được chứ sánh sao được với ông râu
đẹp..." Quan Vũ khoái  chí đưa cho các quan xem rồi vuốt râu
cuời nói "Khổng Minh biết bụng ta  lắm!" Lần khác, Quan Vũ
đang vây đánh Phàn Thành th́ quân tiếp viện của  phía
Tào đến. Bị Bàng Đức (tướng tiên phong của quân Tào)
khiêu khích, Quan  Vũ bèn giao việc đánh Phàn Thành cho Liêu
Hóa rồi vác đao ra đấu với Bàng  Đức. Đấu măi chẳng
thắng được, lại c̣n bị Bàng Đức giả bộ dùng thế
đà đao,  miếng vơ ruột của Quan Vũ, rồi bất ngờ bắn
tên trúng vào cánh tay. Nếu Bàng  Đức không bị Vu Cấm
đố kị th́ Quan Vũ đă chết dưới đao của Bàng Đức
rồi. 

Thói khinh người đến lố bịch của Quan Vũ được lộ ra
trong hai trường hợp.  Khi được Lưu Bị phong đứng đầu
ngũ hổ tướng Quan Vũ không chịu nhận, lấy cớ  là
không thèm đứng chung danh với tên lính ǵa Hoàng Trung! Đến
khi được  Phí Thỉ vuốt ve "... ông là em Hán Trung Vương,
hay dở có nhau, phúc họa  cùng chia, th́ chức tước đâu
có đáng kể ...", lúc đó bùi tai mới chịu nhận  tước
phong. Tôn Quyền là chúa Đông Ngô muốn cầu thân với Quan
Vũ bèn xin  hỏi con gái của Quan Vũ cho con trai ḿnh. Quan Vũ
trả lời "con gái ta ví  như loài hổ, lại thèm kết duyên
với loài chó sao?".(11)

 Kiêu căng, hiếu  thắng là khắc tính của "nhẫn", khinh
người là khắc tính của "lễ", cho nên  có thể nói Quan Vũ
không có hai đức tính này.

Đến đức "nhân", là yêu người,  thương tha nhân, trong
truyện Tam Quốc Chí chỉ thấy Quan Vũ, với thanh long  đao
và ngựa xích thố, giết hết tướng này tới tướng khác.
Nhiều khi giết  người chỉ để khoe vơ công tài giỏi,
để đền đáp ơn nghĩa riêng, hoặc để  chứng minh ḷng
trung thành với chủ là Lưu Bị, chứ không phải chiến
đấu với  quân thù trên chiến địa. Việc Quan Vũ giết hai
tướng Nhan Lương, Văn Sú của  Viên Thiệu là để đáp ơn
nghĩa riêng với Tào Tháo, giết Sái Dương ở trước Cổ 
Thành là để minh chứng với Trương Phi rằng ḿnh vẫn
trung thành với Lưu Bị. Những việc có lợi cho bản thân mà
hại đến sinh mạng người khác, như các sự  việc vừa
kể, người có đức nhân không làm.   

*

Nếu căn cứ vào những sự kiện xẩy ra theo truyện Tam
Quốc Chí của La Quán  Trung th́ cái lầm lẫn to lớn nhất
của Quan Vũ là việc tha Tào Tháo ở đường  hẻm Hoa Dung.
Tuy chỉ là một lầm lẫn chiến thuật nhưng nó đă xoay
chuyển cả  cục diện thời hậu Hán, và Quan Vũ làm việc
này chỉ v́ giữ "nghĩa khí vặt",  v́ kiêu hănh bản thân
mà quên đại nghĩa. Lầm lẫn lớn kế sau đó là việc gây 
thù oán với Đông Ngô, trái hẳn với lời dặn chiến
lược của Khổng Minh, với  kế hoạch pḥng thủ rút gọn
trong cẩm nang 8 chữ: "đông ḥa Tôn Quyền, bắc cự Tào
Tháo". Quan Vũ đă làm ngược kế hoạch đó. Đông th́ bất
ḥa với Tôn  Quyền và Bắc th́ dốc toàn lực đánh Tào
Tháo! (Cự là chống đở, tức là thủ,  chứ không phải
tiến đánh, tức là công). V́ Quan Vũ không đủ tài trí và
mưu  lược, lại thêm những nhược điểm kiêu căng, khinh
địch nên lầm lẫn chiến  lược này đưa đến họa sát
thân và gây mầm xụp đổ cho Ba Thục. (12)     

Cho nên về nhân vật Quan Vũ, trong Tam Quốc Chí của La
Quán Trung, ta có  thể nói: Quan Vũ chỉ biết trung với chủ
mà ít lưu tâm tới trách vụ với dân,  với nước. Chỉ
biết giữ nghĩa khí hẹp mà quên đại nghĩa. Có dũng nhưng
mưu tồi. Trí đoản và kiêu căng quá lố. Không biết
nhẫn, kém lễ và thiếu ḷng  nhân.

 Ngoài sự kiện nhà Thanh đề cao việc sùng bái Quan Công
v́ hậu ư chính  trị như đă nói ở trên không biết c̣n
nguyên nhân nào khác không? Nhưng một  đại tướng, giả
sử là một nhân vật có thật, có những lầm lẫn lớn lao
đến làm  hỏng đại cuộc, gây họa sát thân mà được
tôn lên hàng thánh phải kể là một  sự lạ lùng. Thờ
một nhân vật tiểu thuyết với đầy dẫy những khuyết
điểm như  Quan Vũ lại càng lạ lùng hơn. Đến như người
Trung Hoa, một dân tộc thông  minh đứng hàng đầu ở Á
đông, lại có chuyện thờ phụng, sùng kính một nhân  vật
như vậy mới thực là lạ lùng hi hữu nhất!

 ----------------------------------------------------------------

(1) Thánh Thán, nhà phê b́nh lừng lẫy nhất của thời
cận kim ở Trung Hoa,  đă đọc và lọc ra từ rừng tác phẩm
văn thơ Trung quốc, 7 tác phẩm ông cho là  xuất sắc
nhất, xuất hiện theo thứ tự thời gian gồm có: Nam Hoa Kinh
(Trang  Tử), Văn Ly Tao (Khuất Nguyên), Sử Kư (Tư Mă Thiên),
Thơ Đỗ Phủ (Đỗ Phủ), Tây  Sương Kư (Vương Thực
Phủ), Thủy Hử (Thi Nại Am) và Tam Quốc Chí (La Quán  Trung).
Về gía trị Thánh Thán ca tụng Tam quốc Chí là "đệ nhất
tài tử thư".

(2) Khổng Tử và 72 môn đệ được thờ trong văn miếu.   

(3) Vợ con những kẻ trộm cướp, tử tù; những kẻ
nhiều đời làm đầy tớ; con  cháu những kẻ trước kia đầu
hàng quân Kim ở đời Nam Tống;...   

(4) Những công việc đồ sộ về văn hóa này đă mang
đến những tác phẩm lớn cho  văn học Trung Quốc như các bộ
Cổ Kim Đồ Thư Tập, Bộ Văn Vận Phủ, Tứ Khố  Toàn
Thư, và nhất là bộ Khang Hi Tự Điển. Đồng thời khi cho
soạn Tứ Khố  Toàn Thư nhà Thanh cũng đă tiêu hủy 538 bộ
sách, cộng 13862 quyển, có liên  hệ tới tinh thần Hán
tộc (theo Trung Hoa Sử Cương của Đào Duy Anh).   

(5) Đôi câu đối này do cố thi sĩ Trần Doăn Lập đọc
và nhớ được. Bồ Châu là  quê của Quan Vũ. Dự Châu là
quê của Lưu Bị. Kinh Châu là nơi Quan Vũ trấn  thủ. Từ
Châu là nơi đầu tiên Lưu Bị được trao chức thứ sử
từ Đào Khiêm.  Huỳnh Đức là tên chữ của Lưu Bị, Dực
Đức là tên chữ của Trương Phi, Mạnh  Đức là tên chữ
của Tào Tháo, Bàng Đức là bộ tướng của Mă Siêu, sau
theo Tào  Tháo. 

Về cách dùng chữ, diễn ư, đặt câu phải nhận rằng
đôi câu đối này thật hay.  Nhưng "vạn cổ thần châu hữu
nhất" đă ghê, đến "thiên thu thánh đức vô song"  th́
thực là qúa đáng!   

(6) Theo Tam Quốc Chí Quan Công có tướng mặt đỏ như son,
râu dài hai thước,  được Hán Đế khen là "mỹ nhiệm
công", được Tào Tháo tặng túi gấm để bọc râu  về mùa
đông!   

(7) Sách luận Ngữ, chương Bát Dật, Vua Định Công nước
Lỗ hỏi Khổng Tử "vua  sai bầy tôi, bầy tôi thờ vua,
phải thế nào?" Khổng Tử đáp "vua sai bầy tôi  phải biết
giữ lễ, bày tôi thờ vua phải hết ḷng" (Định Cộng
vấn: ểquân sử  thần, thần sự quân, như chi hà?ể Khổng
Tử đối viết: ểquân sử thần dĩ lễ,  thần sự quân
dĩ trungể). Vua sai bày tôi dựa vào lễ chứ không dựa vào 
quyền, bày tôi thờ vua cốt ở trung không cốt ở nịnh.
Cũng chương Bát Dật  sách Luận Ngử, Khổng Tử c̣n nói
"kẻ thờ vua mà chỉ cố giữ nghi tiết (lễ) là  kẻ nịnh
hót" (Sự quân tận lễ, nhân dĩ vi siểm gĩa)   

(8) Sách Mạnh Tử, chương Tận Tâm (hạ): Lấy dân làm
qúy, xă tắc thứ yếu, vua  là nhẹ, nên có được ḷng dân
mới xứng làm thiên tử (Dân vi qúy, xă tắc thứ  chi, quân
vi khinh, thị cố đắc hồ ḱ dân nhi vi thiên tử).   

(9) Khổng Học Đăng, Phan Bội Châu, trang 159, 160, 161   

(10) Trong Luận Ngữ, chương Lư Nhân, Khổng Tử nói "quân
tử biết rơ về  nghĩa, tiểu nhân biết rơ về lợi" (Quân
tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi)     

(11) Đây có lẽ là điều kiêu ngạo lố bịch nhất của
Quan Vũ. Tôn Quyền thuộc  ḍng giơi danh tướng nhiều
đời, lại là đương kim chúa tể Đông Ngô, sánh  ngang với
Lưu Bị, nếu không muốn nói là hơn; c̣n Quan Vũ chỉ là
một gă tử  tội phải bỏ xứ bôn đào, nhờ thời thế
được làm trấn thủ vùng Kinh Châu (đất  mượn của Tôn
Quyền) mà khoe con ḿnh là loài hổ c̣n khinh con người là
loài  chó th́ thật là qúa quắt! 

(12)  Một sự kiện lư thú là cả hai lầm lẫn lớn lao
của Quan Vũ đều do Khổng

Minh cố ư dàn xếp! Biết Quan Vũ có tính khí khái vặt mà
Khổng Minh vẫn sai  Quan Vũ chặn đường Tào Tháo ở Hoa
Dung; biết Quan Vũ không đủ tài đánh Tào  Tháo mà Khổng
Minh vẫn khuyên Lưu Bị sai Quan Vũ đánh Phàn Thành. Có dịp
người  viết sẽ xin bàn về "kỳ nhân Khổng Minh" này.   

Sách tham khảo: 

- Tam Quốc Chí (các bản dịch của Phan Kế Bính; Tử Vi
Lang; và Tử Mỹ)        - Trung Hoa Sử Cương của Đào Duy Anh

- Khổng Học Đăng của Phan Sào Nam 

- Mạnh Tử của Nguyễn Hiến Lê 

- Luận Ngữ bản dịch của Đoàn Trung C̣n 

- Nói Chuyện Tam Quốc của Vũ Tài Lục        - Bách Gia Chư
Tử của Trần Văn Hải Minh

- Các tự điển: Hán Việt của Nguyễn Văn Khôn; Việt Nam
của Lê Văn Đức


 

 

 

 

 



 

 

 

Thi Nhân, Tráng Sỹ Đặng Dung và Thi Phẩm Cảm Hoài

 

Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do


Đầu bạc giang san thù chưa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.


Tiểu Sử: Danh tướng Đặng Dung, sinh không rơ mất năm 1413. Ông người Nghệ An nhưng theo gia đ́nh vào lập nghiệp tại vùng đất nay thuộc tỉnh Thăng B́nh, tỉnh Quảng Nam. Ông cùng Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy rước Trần Quư Khoách về Nghệ An lập lên vua Trùng Quang quyết liệt kháng Minh. Năm 1413 ông cùng vua Trùng Quang bị bắt giải về Tàu, nửa đường ông trầm ḿnh tự tử. Ngoài gương anh hùng tiết liệt, Đặng Dung c̣n được xem như một nhà thơ lớn của dân tộc mặc dù ông chỉ để lại một ít bài thơ, trong đó có bài Cảm Hoài nổi tiếng. Sau đây là một bài viết phân tích bài thơ Cảm Hoài của ông.

Trong lịch sử có những tráng sĩ, danh tướng ngẫu nhiên làm một vài bài thơ. Thơ của họ được người đời sau biết đến là nhờ danh tiếng của họ lưu trong lịch sử. Lư Thường Kiệt, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư nằm trong trường hợp này. Nói đến Lư Thường Kiệt người ta nhắc tới bài thơ có câu "Nam quốc sơn hà Nam đế cư". Nói tới Trần Quang Khải người ta kể "Đoạt sáo Chương Dương độ". Và nói tới Trần Khánh Dư người ta đề cập tới bài Bán Than. Đó là trường hợp từ danh của tướng người ta liên tưởng tới thơ của họ. Trường hợp của Đặng Dung ngược lại: từ thơ người ta liên tưởng tới cuộc đời của ông. Đặng Dung làm thơ nhiều hay ít không rơ, chỉ biết ông có một bài duy nhất được lưu lại, đó là bài Cảm Hoài (hay Thuật Hoài). Với bài này tên ông đă có chỗ đứng trong văn học sử, và người đời sau khi đọc bài thơ không thể không khen cái hay của nó. Yêu thơ, muốn t́m hiểu thêm về tâm sự và cuộc đời tác giả, người ta sẽ thích thú khi biết rằng ông là một nhà ái quốc tuyệt vời, một dũng tướng can trường, một nhân kiệt hiếm có, một tráng sĩ hiên ngang, khí phách sống vào thời Trần mạt. Bài Cảm Hoài của ông nguyên tác bằng chữ Hán, phiên âm như sau:

Thế sự du du nại lăo hà, (*)
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca, (*)
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. (*) (1)
Trí chúa hữu hoài phù địa trục, (*)
Tẩy binh vô lộ văn thiên hà, (3)
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch ,(*) (2)
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.

Lư Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am Văn Tập, khi đọc bài thơ này đă hết lời ca tụng người sáng tác ra nó là "phi hào kiệt chi sĩ bất năng" (không phải là kẻ sĩ hào kiệt th́ không thể sáng tác được như vậy).
Ta hăy lược qua thân thế của tác giả để có thêm chất liệu soi sáng thêm cho phần thưởng thức bài thơ.
Đặng Dung sinh và mất năm nào không rơ, chỉ biết ông là người làng Tả Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh. Thân phụ ông là Đặng Tất làm quan triều Trần. Khi quân Minh do Trương Phụ thống lănh chiếm nước ta, năm 1407 Đặng Tất cùng đồng liêu là Nguyễn Cảnh Chân theo giúp Giản Định Đế chống quân Minh. Nhưng Giản Định Đế nghe lời xiểm nịnh giết cả Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị, con Nguyễn Cảnh Chân, v́ đại cuộc quên thù nhà, đem quân từ Thuận Hóa về Thanh Hóa, tôn Trần Quư Khoáng lên làm vua, đó là Trùng Quang Đế, để tiếp tục sự nghiệp chống Minh. Chiến công đáng ghi nhớ nhất trong đời ông là đánh úp doanh trại quân Minh trong một đêm của tháng 9, năm 1413. Ông và một vị tướng khác là Nguyễn Suư cầm đầu một toán quân xung kích nhảy lên thuyền tướng giặc, tính bắt sống, nhưng nhờ đêm tối Trương Phụ đă thoát hiểm.

Thời Trần mạt, tráng sĩ, nghĩa sĩ khá đông, ngoài cha con ông, và cha con Nguyễn Cảnh Dị c̣n có kẻ sĩ can tràng Nguyễn Biểu, dũng sĩ hiên ngang Nguyễn Suư, v.v.. nhưng v́ nghiệp nhà Trần đă hết, vận nước gặp hồi điêu linh, nên tất các cuộc khởi nghĩa chống quân thù đều thất bại, và bao nhiêu kiệt sĩ đă phải ngậm đắng nuốt cay v́ vận mạt. Sau khi cuộc kháng chiến thất bại, vua Trùng Quang và các tướng tá bị bắt, có sách ghi là ông ở trong đám người bị bắt đó. Trên đường bị giải về Yên Kinh ông và vua Trùng Quang đă nhảy xuống sông tự vẫn.

Bây giờ chúng ta lắng nghe Đặng Dung dăi bầy nỗi cảm hoài qua 8 câu thơ của ông :

1- Việc đời c̣n dằng dặc mà ḿnh đă già mất rồi,
2- (vậy nên) đất trời mênh mông thu lại là một cuộc say hát (mà thôi).
3 - Gặp thời bọn giết heo, bọn câu cá cũng thành công dễ,
4- (nhưng) lỡ vận th́ anh hùng cũng đành nuốt hận nhiều (2).
5- Giúp chúa có ḷng đỡ trục trái đất,
6- (nhưng tiếc rằng) rửa binh không có đường kéo sông trời (3).
7 - Nợ nước chưa báo được đầu đă sớm bạc,
8- (đáng tiếc thay) đă bao phen mài gươm Long Tuyền dưới ánh trăng.

Bài thơ mở ra bằng cái bi phẫn của thi-nhân-tráng-sĩ, ngao ngán v́ việc đời c̣n ngổn ngang mà tuổi đă xế chiều. Bi phẫn đó dẫn đến lời ngậm ngùi: trời đất mênh mông rút lại không chừng chỉ c̣n là một cuộc say hát nghêu ngao. Ta bắt gặp ư niệm tương tự nơi Tiêu Sơn Tráng Sĩ thời Lê mạt. Khi cuộc phục Lê đă vô vọng, t́nh yêu với Trương Quỳnh Như không thành, Chiêu Ĺ Phạm Thái đă trốn vào rượu, suốt ngày ngâm câu "Chí lớn trong thiên hạ không đựng đầy một hồ rượu, không đong đầy đôi mắt mỹ nhân".

Rồi từ nỗi chán chường đó thi nhân tự t́m an ủi trong triết lư về thời và vận, đầy chua cay nhưng không kém ngạo nghễ: "Thời lai đồ điếu thành công dị, vận khứ anh hùng ẩm hận đa!" Coi thường Phàn Khoái (dũng tướng của Hán Cao Tổ Lưu Bang vốn làm nghề giết heo - đồ là kẻ giết heo) nghe c̣n tạm xuôi nhưng khinh thị Hàn Tín (đại nguyên soái của Hán Cao Tổ, khi hàn vi là anh đi câu cá kiếm ăn - điếu là đi câu cá) th́ thật quá đáng. Bởi Hàn Tín là một đại tướng lừng danh của lịch sử Trung Quốc, một trong mấy hào kiệt đă giúp chúa dựng nên đế nghiệp vẻ vang. Nhưng tại sao đọc hai câu thơ này ta không thấy chướng tai, mà lại thấy lời thơ hùng tráng và ư tứ ngậm ngùi- Bởi v́ Đặng Dung là một tráng sĩ ... thất bại, nhất là thất bại trong sứ mạng phục quốc. Người ta thường chỉ chê những kẻ công thành, danh toại mà có những lời ngạo mạn, nhưng lại thông cảm và thích thú với lời ngạo nghễ, khinh bạc của những kẻ có chí, có tài nhưng lỡ thời, lỡ vận. Bài thơ được nhiều người ưa thích, và truyền lại cho hậu thế một phần có thể là nhờ hai câu thơ hùng tráng và đầy ngạo nghễ này. Đối với những hào kiệt lỡ vận nó là một lời an ủi thấm thía, một phản ảnh tâm lư tuyệt vời. Suốt ḍng lịch sử đấu tranh của dân tộc ta, biết bao nhiêu anh hùng đă lỡ vận, đă có tâm sự bi phẫn giống như tâm sự của người tráng sĩ làng Thiên Lộc, khi đọc hai câu thơ này chắc là họ sẽ thấy thấm lắm.

Nếu bốn câu đầu của bài thơ phản ảnh suy tư và triết lư thời vận của nhà thơ th́ bốn câu sau phản ảnh tâm sự và tấm ḷng của ông đối với dân, với nước. Người hào kiệt ấy dốc ḷng nhận trách nhiệm, sẵn sàng ghé vai khiêng trái đất, kéo sông trời mà gột giáp binh để đem độc lập về cho đất nước, mang thanh b́nh lại cho muôn người. Bao phen mài gươm kiên nhẫn đợi chờ mà thời vẫn chẳng chiều. Bài thơ khép lại bằng h́nh ảnh của một bạch đầu tráng-sĩ dưới nguyệt mài gươm đầy thơ mộng, hào hùng, và lồng lộng một tấm ḷng phục quốc khôn nguôi. Đem tiểu sử soi chiếu vào thơ, người ta càng thêm cảm phục tấm ḷng của kẻ đă v́ nợ nước coi nhẹ thù nhà, đă tận tụy với quê hương cho tới khi lâm tử. Bài thơ của ông quả thật tuyệt vời cả ư lẫn lời.

* Ngoài một số bài thơ Đường, có lẽ Cảm Hoài của Đặng Dung là bài thơ chữ Hán có nhiều người dịch nhất. V́ sự hạn hẹp của ngôn ngữ và sự phong phú của thơ, người dịch khó ḷng chuyển được hết ư quấn quưt, tứ súc tích, lời hào hùng, khí ngạo nghễ, hồn lồng lộng của bài thơ.

Ba chữ nại lăo hà ở cuối câu 1 nửa như lời tự hỏi đầy ngao ngán: già rồi ư? già mất rồi ư?. Nửa như trách móc thời gian: sao vội bắt già! (nại hà: làm sao, thế sao, nài nỉ sao). Về ba chữ nhập hàm ca ở cuối câu 2, nếu hiểu hàm và ca tách biệt nhau th́ ư thơ thành ra: rút lại chỉ c̣n là say sưa và ca hát (nghêu ngao); nếu hiểu hàm giúp nghĩa cho ca th́ ư thơ có thể hiểu là: rút lại chỉ c̣n là cuộc hát say sưa, mê mải (cho quên chuyện đời). Sâu kín trong hồn của hai câu thơ là cái triết lư: với khoảng đời sống trong thời gian vô tận (thế sự du du) và không gian không bờ (thiên địa vô cùng) con người sẽ khó thực hiện được hoài băo lớn lao.

Hai câu 3 và 4 tương đối dễ dịch nghĩa nhưng lột được cái khí ngạo nghễ của tứ, và điệu mạnh mẽ của lời lại không dễ. Hai chữ "đồ điếu"vừa khinh bạc (bọn hèn kém giết heo, câu cá), vừa ngạo nghễ (những thứ như Phàn Khoái, Hàn Tín) giữ nguyên được ư th́ lời không được sáng rơ, mà thoát dịch cho được lời rơ th́ khó mà gồm được cả hai ư. Sự khó khăn trong việc dịch 2 câu thơ này là ở chỗ đó. Và trên thực tế chưa có ai dịch được cả ư lẫn lời của hai câu này một cách thành công hoàn toàn.

Trong câu 5 "phù địa trục" được dùng thật gợi h́nh và lạ lùng. Gợi h́nh v́ h́nh ảnh một tráng sĩ ghé vai khiêng trái đất làm ta liên tưởng tới cái ư vừa chấp nhận trọng trách nặng nề, vừa tận tụy thi hành. Lạ lùng v́ địa trục gây cho ta ấn tượng trái đất h́nh cầu trong khi ở đầu thế kỷ 15 người ta chưa biết được trái đất h́nh cầu, vậy hẳn là Đặng Dung cũng chưa biết, không hiểu tại sao ông lại dùng được hai chữ đó. Địa trục lại đối chọi một cách thú vị với thiên hà ở câu dưới. Câu 6 tứ thơ khó chuyển v́ điển tích "văn thiên hà" và từ "binh" để chỉ binh khí . Ư sâu kín trong hai câu thơ là tấm ḷng của ông đối với nước (câu 5), và hoài băo của ông mong đem thanh b́nh đến cho dân (câu 6), cho nên dịch được cả ư và lời của hai câu 5, 6 này rất khó. Khó không kém ǵ câu 3 và câu 4 ở trên, có phần khó hơn v́ cai ư ẩn sâu mà người đọc thơ phải đào kỹ mới thấy.

Gợi h́nh nhất của bài thơ là hai câu cuối, đúng là thi trung hữu họa. Rất nhiều người sẽ yêu hai câu thơ này v́ h́nh ảnh hào hùng của của một tráng sĩ bạc đầu vẫn kiên gan mài kiếm dưới trăng. Nó rực rỡ hơn nhiều h́nh ảnh Tôn Thất Thuyết ngồi cầm gươm chém đá trong những ngày tàn của cuộc đời. Nó tuyệt vời hơn nhiều h́nh ảnh một thi sĩ Cao Tần vác thanh kiếm gẫy lên non vạch đất nhớ quê hương.

Bài thơ, về khía cạnh riêng, phản ảnh hoàn cảnh, tâm sự và hoài băo của tác giả, nó gây cảm ứng đồng điệu nơi người đọc. Về khía cạnh chung nó làm rung động sâu xa mỹ cảm nơi người đọc v́ h́nh ảnh và nhạc điệu phong phú của nó.

V́ bài thơ có quá nhiều ưu điểm nên người ta khó ḷng dịch được hết cái hay. Để thưởng thức trọn vẹn bài thơ, có lẽ ta nên đọc và thưởng thức thẳng vào nguyên tác. Tuy nhiên ở đây chúng tôi cũng xin chép lại mấy bản dịch đă sưu tầm được, và chúng tôi cũng dịch một bản, hy vọng những bản dịch này sẽ gây thêm hứng vị cho độc giả.

1. Bản dịch của Phan Kế Bính, trích trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say,
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong pḥ chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đă bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

2. Bản dịch trong Việt Nam Nhân Vật Chí Vựng Biên của Hồ Đắc Hàm và Thái Văn Kiểm

Tuổi về già, phải thời bối rối,
Cả đất trời một hội mê say,
Gặp thời kẻ dở nên hay,
Anh hùng lỡ vận, đắng cay trăm phần.
Ḷng cứu chúa muốn vần trái đất,
Gột giáp binh khôn dắt sông trời.
Thù c̣n đầu đă bạc rồi,
Mấy phen dưới nguyệt chuốt mài lưỡi gươm.

3. Bản dịch của Phan Vơ

Việc thế lôi thối tuổi tác này,
Mênh mông trời đất hát và say,
Gặp thời đồ điếu thừa nên việc,
Lỡ vận anh hùng luống nuốt cay.
Giúp chúa những lăm giằng cốt đất,
Rửa ḍng không thể vén sông mây.
Quốc thù chưa trả già sao vội,
Dưới nguyệt mài gươm đă bấy chầy.

4.Bản dịch của Đào Hữu Dương

Tuổi già lận đận nỗi t́nh đời,
Vô tận vần xoay khoảng đất trời,
Ti tiện gặp thời lên chẳng khó,
Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi.
Vác non pḥ chúa trên vai nặng,
Gột giáp qua mây mặt nước trôi
Thù nước chưa xong đầu sớm bạc,
Dưới trăng mài kiếm mấy thu rồi.

5. Bản dịch của Vũ Hải Tiêu

Thế cuộc mênh mang tuổi sớm già,
Đất trời thu lại chỉ say ca,
Gặp thời đồ điếu thành công dễ
Lỡ vận anh hùng nuốt hận đa.
Giúp chúa những mong nâng địa trục,
Rửa binh không lối kéo thiên hà.
Quốc thù chưa trả đầu mau bạc,
Bao độ mài gươm dưới nguyệt tà.

6. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
Tan tành sự thế luống cay ai !
Pḥ vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.

7. Bản dịch của Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do

Thế sự ngổn ngang tuổi luống rồi,
Đất trời thu lại hát say thôi,
Anh hùng nuốt đắng khi tàn vận,
Đồ điếu nên công lúc gặp thời.
Giúp chúa rắp tâm nâng trái đất,
Rửa binh khôn lối kéo sông trời.
Quốc thù chưa báo đầu mau bạc,
Bao độ gươm mài bóng nguyệt soi.

----------------------
Chú thích:
(*) Bản chép khác: câu 1: Thế lộ du du ... câu 2: Nhập thù ca, câu 4: Sự khứ anh hùng ... câu 5: Trí chúa hữu tâm, câu 7: Quốc thù vị phục đầu tương bạch.
(1) Hai chữ "đồ, điếu" ở câu 4 là chỉ Phàn Khoái, làm nghề đồ tể trước khi ra giúp Lưu Bang, và Hàn Tín, lúc c̣n hàn vi đi câu để chờ thời, sau cầm quân giúp Lưu Bang dẹp Tần, Sở lập nên nhà Hán.
(2) Câu 6 lấy ư từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mă của Đỗ Phủ, thời Đường bên Trung Hoa:

"An đắc tráng sĩ văn Ngân Hà,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng"
Ước ǵ có kẻ tráng sĩ kéo sông Ngân Hà,
rửa sạch giáp binh để lâu dài không phải dùng tới nữa.
Ư để chỉ sự ḥa b́nh lâu dài.