NHỮNG MÓN NỢ
Ngày đi vượt biên, tôi dẳt theo hai đưả em sinh đôi nhỏ hơn tôi ...trên 20
tuổi (người trong tàu nghĩ là.... con tôi) .Trên đường vượt biển, tàu bọn
tôi bị hải tặc Thai chặn lại, lột sạch tiền, vàng bạc, nữ trang... Tuy vậy,
dân có kinh nghiệm vượt biên cũng giấu được ỉt nhiều, c̣n tôi mới đi lần đầu
ngơ ngáo bị lấy sạch sành sanh chẳng c̣n một xu dính túị Vào đến Kuku, tên trưởng đảo lấy lương thực do UNHCR cấp để ... bán cho người tỵ nạn, chỉ phát một khẩu phần gạo khiêm tốn mỗi ngày, đủ để anh em tôi nấu cháo sống sót qua ngàỵ Đường cùng, tôi phải t́nh nguyện mang tiền, quần áo...cuả người trong tàu sang làng điạ phương gần đó để đổi lấy thực phẩm, bù lại, họ cũng chia cho tôi một chút để trả công. Đường đi khoảng 7km, lại phải băng rừng, lội qua các đầm nước lợ để tránh cảnh sát, phần th́ không quen làm việc nặng, được vài ngày th́ tôi lăn ra sốt li b́. Lo cho ḿnh th́ ít, tôi lo hai đưá nhỏ mới 6 tuổi phải chịu đói khát nếu ḿnh đau nặng .... Giữa lúc đó, bác T. khều tôi ra một góc riêng, dúi vào tay tôi tờ US $20, bảo là khi nào qua đến Galang hăy trả. Tôi cầm tờ bạc mà rơi nước mắt. Trong lúc thiên hạ giành giật vởi nhau từng miếng ăn th́ bác lại chia xẻ với một người chưa quen biết, dù là bác ấy cũng có hai đứa con nhỏ phải lo, chẳng biết tôi là ai, và cùng chung một hoàn cảnh, không biết khi nào mới đi khỏi Kuku.... ..... tôi cũng nhớ tới S., một người ban trẻ đi khác tàu đến Kuku trước tôi vài tuần. Khi vợ S, và hai người cùng tàu mất v́ bệnh, tôi có kẻ giủp một tấm bia đá bằng sơn đỏ đảnh dẩu mộ phần, và v́ thế nên quen nhaụ Khi tàu cao uỷ đến đón S. đi Galang, buổi tối đó, S. kêu tôi qua, đem hết thực phẩm và dúi cho tôi $10 , bảo là "tui qua Galang có cao uỷ lo rồi, c̣n ông ở lại không biết đến bao giờ...." ....tôi nhở đển người bạn gái bỏ lại ở Dalat, H. vẫn viểt thư qua trại an ủi tôi những ngày trong trại tỵ nạn, có thư cô viết : ngày nào anh c̣n ở trại th́ ngày đỏ em sẽ không nhận lời cuả ai khảc .... nhờ những lời cô viểt mà tôi vượt qua được những lủc thất vọng chán chường .... .....tôi nghĩ đển người tài xể taxi ở Atlanta hồi mởi cưởi vợ Sau đám cưới tôi đưa bà xă từ Boston về đển Atlanta đă gần 2 giờ sảng. Sau khi chẩt hành lỷ lên xe, tôi vừa ra khỏi parking khoảng ? mile th́ xe ... chểt mảy . Bỏ bà xă ngồi trong xe, tôi chạy bộ về airport t́m được một chiểc taxi ? người tài xể da đen trong rẩt đảng sợ- chở tôi về chỗ bà xă đang chờ.. Nhưng thay v́ chuyển hành lỷ sang taxi, người driver bảo tôi mở nẳp mảy, chui vào loay hoay một chủt rồi bảo tôi vào restart . Sau vài lần, mảy xe nổ lại . Khi đỏ, ông ta bảo tôi hẳn sẽ chạy theo sau, nểu qua 2 exits mà xe chạy b́nh thường th́ hẳn sẽ rẽ vào exit . Tôi đưa tiền nhưng ông ta từ chổi .... Nợ tiền bạc th́ dễ trả, qua đển Galang, liên lạc được vởi chị M., tôi đă gởi trả bảc T. và S, những ǵ đă nhận. Bảc T. đi định cư trưởc tôi, nghe nỏi bac đang ở Canada nhưng tôi không liên lạc được . S. hiện đang sổng ơ St. Louis, thỉnh thoảng nỏi chuyện qua phone lại rủ nhau đi nhậu . Tôi cỏ viểt thư lên tờ AJC để cảm ơn người tài xể vô danh ngày nào.... Nhưng c̣n món nợ ân t́nh những khi khốn khó thì biết trả sao đây ???
Đặng Đình
Thành |
NGƯỜI CHA
Trong kư ức non nớt cuả tôi, bố tôi luôn mặc
quân phục. Hơn nữa, nhà tôi ở trong một khu gia binh gần trường đua Phú thọ,thế
nên, bạn bècùng lứa tuổi tôi, đứa nào cũng có cha khoác áo lính. Những h́nh ảnh đầu đời ăn sâu vào tâm khảm, khiến tôi nghĩ rằng: Người Cha và Người Chiến sĩ là một. Một hôm, tôi chợt tỉnh giấc, nghe bố tôi dặn mẹ: Nếu quá trưa ngày mai không thấy bố tôi về th́ vào Sở nhận chiếc xe gắn máy Gobel cuả bố về, và làm giấy tờ lănh tiền tử tuất. Mẹ tôi sụt sùi khóc. Qua câu chuyện giữa bố mẹ tôi, tôi được biết bố tôi thường phải đi xa, tận Đà Nẵng, rồi vượt tuyến bay ra Bắc; đưa các chiến sĩ cảm tử nhảy dù xuống ḷng đi.ch. Nhiều lần như thế, bố tôi vẫn trở về. Có khi, bố tôi đi công tác tận Cà mau, mang về cho anh em tôi những quả dưa hấu vàng ươm thơm phức. Lần đầu, tôi mới thấy loại trái này ít hạt. Có lần, mẹ tôi dắt anh em tôi sang trựng đua xem bố nhảy dù biểu diễn Gần sát mặt đất, bố mới bấm dù mở xoè ra, rồi điều khiển cánh dù bay lượn xuống trước khán đài, đứng nghiêm chào quan kháck theo quân cách. Tôi chạy lạị Dây dù c̣n vướng trên vai, bố bế tôi lên cao, cười tươị Tôi hănh diện có cha là lính chiến VNCH.
Tháng Sáu lại trở về. Tháng Sáu có ngày Father Day, và Trở Về Cố Hương
Tiếng phi cơ thả bánh chuẩn bị đáp làm tim tôi tưởng chừng nhảy thót ra ngoài như những chiếc bánh cao su từ từ lộ ra khỏi thân tàu sắt.
Đây rồi Biên Ḥa với gịng sông Đồng Nai lặng lờ uốn khúc. Và đây là phi trường Tân Sơn Nhất. Cũng những cảnh ấy mà ngày nay khác xưa là bao. Có lẽ v́ thiếu vắng những khuôn mặt thân yêu thấp thoáng chờ đón bên ngoài chứ Sài G̣n vẫn là Sài G̣n muôn thuở.
Đây nầy con đường Công Lư dẫn đưa khách từ phi trường về ḷng thành phố. C̣n đây ngôi trường Marie Curie hiên ngang nằm ở góc đường như thuở nào giống những nữ sinh trường đầm thập tḥ chờ đón các bạn nam sinh trường Chasseloup Laubat ở phía trên đổ dồn về vào giờ tan học. Và đây ngôi Vương Cung Thánh Đường màu gạch đỏ nổi bật giữa làn xe cộ lượn khúc ṿng quanh. Không biết bên trong có c̣n chăng tiếng đàn “organ” dịu vợi ngày nào với bài Đêm Đông dẫn đưa con chiên về bên máng cỏ Bêlem? Ngước mắt sang bên nh́n lại Phủ Tổng Thống ngày xưa nơi diễn ra bao nhiêu tṛ đổi chác tráo trở quyết dịnh vận hạn đất nước.
Rồi cuối cùng xe dừng lại ở khách sạn Continental nơi ngày xưa có nhiều ông tây già mặc đồ x́-bo trắng toát ngậm điếu x́-gà nặng đến xệ môi ngồi nhấm nháp từng ngụm cà phê đen bàng quang ngắm khách bên ngoài.
Chiều lại tôi thả dọc theo đường Lê Thánh Tôn t́m lại chút kỷ niệm xưa. Ôi cái thuở êm đềm cùng người t́nh chung ngồi bên vỉa hè uống từng tách cá phê đắng hoặc chui vào quán Chung Nhuận Hy ăn cục thịt ḅ kho mềm rục với ổ bánh ḿ nóng ḍn thơm phứt. Mà không êm đềm sao được khi sánh vai cùng người yêu lượn phố để bao giờ cũng kết thúc bằng ly đậu đỏ bánh lọt ngọt lịm ở góc chợ Bến Thành.
Trở về khách sạn bằng con đường Lê Lợi, ghé nhà sách Khai Trí nơi chúng tôi thường chui vào đọc sách báo “cọp.” Đứa th́ ngốn nghiến đọc nhanh tạp chí Paris Match, c̣n đứa th́ hồi hộp nhất định đọc cho hết tiểu thuyết “Roman Policier” để biết kết cuộc ra sao. Bây giờ nơi này có sách ǵ đây? Chưa đói mà không cưỡng lại được những lời mời gọi của chuỗi ngày kỷ niệm chôn vùi trong nhà hàng Givral. Tôi tạt vào để thưởng thức hương vị món bánh Flan ngày xưa. Đó là cái bánh tṛn kiêu sa nằm trong một chiếc đĩa trắng làm nổi bật chất đường vàng ươm viền quanh bánh. Vậy mà mùi thơm của trứng, vị ngọt của đường không làm sao cho chiếc bánh flan rất đặc biệt có thể ḥa lẫn với bất cứ thứ bánh nào khác. Sài G̣n cũng thế. Sài G̣n có đổi tên, dù dường Sài G̣n có được khai sinh lại, Sài G̣n vẫn là Sài G̣n cũ trong ḷng tôi với muôn vàn dấu chân kỷ niệm, với bao nhiêu h́nh bóng người thương mến cũ, với những nơi chốn khó quên, với bao niềm thương tiếc khôn nguôi. Sài G̣n vẫn là Sài G̣n ngày xưa.
Đang đắm ḿnh trong bao kỷ niệm, loay hoay với hàng trăm câu hỏi thật sự Sài G̣n có đổi thay chăng, chợt một làn gió thoảng từ sông Sài G̣n mời gọi khách rảo bước xuống bến tàu. Vẫn những chiếc xe đẩy cũ kỹ treo lũng lẳng những con mực khô dẹp lép được đám trẻ con ốm teo vây quanh để thưởng thức “nhờ” mùi khô mực nướng ngào ngạt. Nh́n những con khô mực rồi lại nh́n đám trẻ con, tôi tự hỏi, “Bên nào thắng giải gầy đét đây?” Thật là mội cảnh trái ngược ở mạn trên của bến tàu rộn rịp với một lớp người đẩy đà ra vào nhà hàng “Hàng Cau” có lính bảo vệ ngăn ngừa đội ngũ trẻ ăn xin. Có lẽ đây là lần đầu tôi đi dạo bến tàu Sài G̣n một ḿnh nên những kỷ niệm xưa rủ nhau chợt ùa lên khóe mắt. Tôi vội vàng rảo bước trở về khách sạn nhưng khi đi ngang nhà hàng “Brodard” cũng vừa lúc một cơn mưa ập xuống. Ấy mưa Sài G̣n như thế đấy, “đang nắng chợt mưa và đang mưa rồi vụt tắt, giống hệt như tính t́nh của em,” chồng tôi thường nói thế.
Có lần chúng tôi bị trận mưa rào bất ngờ khi đi ngang qua khu Lăng Ông Lê Văn Duyệt ở Gia Định. Mưa ướt dán chiếc áo hàng nội hóa màu hồng vào thân h́nh gấy đét như lá tre của tôi. Bất chợt, người t́nh tôi buột miệng: “Đừng chui vào lăng trú mưa có người thấy dám tưởng liêu trai đội mồ. Thôi, gắn chịu lạnh mà về luôn.” Bây giờ, một ḿnh tôi càng sợ lạnh hơn nên phải tạt vào nhà hàng Brodard nổi tiếng với các món ăn Pháp và cà phê. Ngồi nhâm nhi đĩa ḿ ống để thả hồn về con đường Cường Để có tàng cây bóng mát dễ thương. Đây này Tu Viện Thánh Giuse, nuôi nấng những tâm hồn mến Chúa yêu người. Và đây ngôi Nhà Kính kiên cố ấp ủ những nữ tu quyết tâm trọn đời dâng hiến cuộc đời để nguyện cầu, bỏ mặc những chàng thủy thủ sở “ba-son” ngẩn ngơ ở cuối đường.
Trời sụp tối. Đúng là lúc nên trở về để theo chân đoàn người đi vào thế giới ăn chơi về đêm. Cảnh rộn rịp bắt đầu từ đại lộ Trần Hưng Đạo. Một thành phố ánh sáng càng ngày càng ló dạng khi xe tiến vào Chợ Lớn. A, đây rồi, khu “Arc-en-Ciel” ngày xưa có những ly sâm-bổ-lượng ngọt lứ đừ với những tô ḿ có mùi vị không bao giờ t́m được ở bất cứ nơi nào. Phải chăng, đó là mùi vị toát ra từ bầu không khí thân thương của những người thân chen chúc quanh chiếc bàn con thưởng thức món hàng dân giả.
Bây giờ Arc-en-Ciel c̣n đó, nhà hàng Bát Đạt c̣n đó, nhưng những người mến yêu nay đă về đâu? Mọi sự đă đổi thay. Ḍng đời đă thay đổi. Nhưng cớ sao con “Kinh đen” lặng lờ quanh quẩn dưới dạ cầu chữ Y trong Chợ Lớn vẫn c̣n đó?
Vơ Kim Sơn1997
Qua Cổng Trường Xưa
Thương mến gửi về Quư Đồng Nghiệp cũ và các em Học Sinh Quốc Gia Nghĩa Tử ngày xưa. Kính tặng hương hồn Trung Tá Trương Khuê Quang, Thiếu Tá Bùi Trọng Chi và Hiệu Đoàn Trửơng Lâm Hữu Bàng.
Trở về Việt Nam bao nhiêu lần mà tôi vẫn c̣n đắn đo có nên thăm trường cũ không? Mà có ai c̣n nơi đó để mà thăm? Tôi xa trường Quốc Gia Nghĩa Tử từ tháng bảy năm 1967, vài ngày sau khi Hiệu Trưởng Thân Trọng Huề đến nhậm chức. Đến chào Tân Hiệu Trưởng để thanh minh: “Thưa Hiệu Trưởng tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển trước khi Hiệu Trưởng đến đây. Vậy là tôi đi không phải v́ Hiệu Trưởng đến.” Và hôm ấy không biết Hiệu Trưởng Thân Trọng Huề buồn lo chuyện ǵ mà chỉ nói một câu giă từ ngắn ngũi, “Je m’en fiche.” Thế là từ dạo ấy tôi không có dịp trở lại ngôi trường xưa, nơi mà ấp ủ bao kỷ niệm với các bạn đồng nghiệp và những học sinh thương mến.
Thuở trường Quốc Gia Nghĩa Tử khai giảng niên học đầu tiên năm 1963-64, chúng tôi gồm 4 nữ giáo sư và vài nam giáo sư dân sự: gs Vạn Vật Nguyễn Văn Thơm, gs Pháp Văn Lê Quang Tấn, gs Vật Lư Vũ Ngọc Vĩnh, gs Sử Địa Nguyễn Đôn Phong, gs Toán Nguyễn Phúc Khánh. Quả thật chúng tôi là dân thiểu số giữa những thầy Kaki đẹp trai lúc nào cũng chỉnh tề trong bộ quân phục thẳng nếp. Hai chị giáo sư Việt Văn Hồ Thị Ngọc Nữ, Vơ Thị Ngọc Dung và về sau có thêm chị giáo sư vật lư Nguyễn Thị Kim Loan bận lo bổn phận làm mẹ hàng năm nên chỉ c̣n Nguyễn Lan Phương và tôi thừơng bị “chịu trận” ở trường Thiếu Sinh Quân mỗi khi hè về với một đám học tṛ loi nhoi đủ lứa tuổi từ đệ thất đến lớp mười hai. Năm sau có thêm kiều nữ giáo sư vạn vật Ngô Thị Băng Sơn tiếp tay và những năm kế tiếp có thêm gs Việt văn dẹp mê hồn Ngô Thị Thu Hà và gs Việt văn Nguyễn Thị Hoà lúc nào cũng làm vui nhà vui cửa mỗi khi Chị hiện diện.
May mắn là vị giám học Lâm Hữu Bàng rất-là-nhà-binh luôn làm trại trửơng có biện pháp kỷ luật cứng rắn nên trại sinh lúc nào cũng theo nề nếp và tôn trọng giờ giấc trong các trại hè. Ngoài ra quư nam giáo sư như Trần Văn Đắt, Hoàng Đ́nh Lộc, Nguyễn Văn Xiên, Hoàng Xuân Thiệu (thuở ấy chưa làm hiệu trưởng) Hồng Quang Anh, Huỳng Văn Quảng, Lê Văn Khiết, Bùi Quốc Tường, Nguyễn Khánh Do, Nguyễn Tri Văn, Trần Quốc Giám, Vũ Viết Dy, Phan Văn Cừ, Phan Văn B́nh, Trần Đ́nh Thanh, Lê Thái Ất, Diệp Vĩnh Tấn (c̣n ai nữa nhĩ? xin đánh chữ đại xá cho nếu lở quên nêu tên) rất là dễ thương sẵn sàng làm thay các nữ giáo sư “ốm yếu” những ǵ trong khả năng. Nhưng có một lần quư vị nam giáo sư không biết làm sao ra tay giúp mà chỉ đứng thập tḥ ở cửa ra vào pḥng ngủ nh́n các nữ sinh oằn oại rên la kêu khóc. Chẳng là chiều hôm đó nhiều nữ sinh bị ngộ độc thực phẩm sau bữa cơm chiều nên vừa nôn vừa khóc ầm ỉ. Có em phải lê lết xuống cầu thang để lên xe tới bệnh viện. Các nữ giáo sư quả thật là tay mềm chân yếu không sao bê các em nỗi. Rất may là hôm sau các em vui vẽ trở về đoàn tụ với gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử tiếp tục những ngày vui ở Vũng Tàu sau một phen hú vía.
Sống vui với đại gia đ́nh Quốc Gia Nghĩa Tử đến tháng bảy năm 1967, tôi “đào ngũ.” Tôi ra đi – không phải theo tiếng gọi của con tim của ông bồ quân dược mà học sinh ngỡ là Phi Luật Tân do nứơc da đen ḍn và mái tóc dợn– mà v́ nhu cầu nghề nghiệp. Ngày tôi ra đi có lẽ giúp ông Tổng Giám Thị Mười và Hiệu Trưởng Bùi Trọng Chi thở phào nhẹ nhơm, không c̣n phải lo “Chị sao mà chiều chúng nó thế!” Trong nghề dạy học tôi áp dụng Triết lư t́nh thương chứ không phải kỷ luật để giáo dục học sinh. Không biết Hiệu trưởng Bùi Trọng Chi báo cáo về tôi với Viện trưởng ra sao nhưng mỗi lần họp là tôi có đề tài để xin thảo luận và cứu xét cách nào cho hợp với việc giáo dục thành phần học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử. Thế cho nên lần đầu tôi tŕnh diện với Viện Trửơng Trung Tá Trương Khuê Quang, ông nh́n tôi rất kỹ rồi hỏi lại “À, ra Chị là Vơ Kim Sơn phải không?” Trung Tá Trương Khuê Quang hẳn là ngạc nhiên v́ trông vẻ bề ngoài của tôi không đến nỗi “tân tiến” lắm dù tôi ở Mỹ mới về c̣n thơm mùi “hot dog” và “hamburger.”
Đa số các em học sinh Quốc Gia Nghĩa Tử thiếu vắng t́nh thương. Cha Anh đă ngă gục ngoài trận tuyến. Mẹ th́ phải tảo tần lo cho cuộc sống gia đ́nh hàng ngày, nên giao các em cho bà ngoại, bà nội trong nom. Có em phải đeo ṭn ten phía sau chiếc xe đ̣ cà rịch cà tang lê lết từ Hóc Môn thả các em xuống ngă tư Bảy Hiền để đến trường, tay cắp sách, tay ôm b́nh cà rem. Có em học sáng xong là ôm b́nh cà rem bán suốt buổi chiều hay ngược lại là phải bán hết cà rem để kịp vào lớp lúc một giờ. Khi gọi các em đọc bài không thuộc tôi không nở hạ bút khoanh tṛn trứng vịt v́ các em phải bị “consigne” ngày Chúa Nhựt,” rồi ai sẽ gánh nước cắt rau, tưới cải, nhổ cỏ bón phân vườn rau thay cho các em đây?
Tôi không phạt. Tôi không rày. Ngô Chí thiền làm chứng cho tôi nhé. Đây là cậu học tṛ phá tôi nhất. Vừa điểm danh xong, quay lưng lại để viết bảng là nghe tiếng, “Thưa cô Ngô Chí Thiền nhảy cửa sổ.” Thế mà các em học ban A ra thi Tú Tài đều được điểm cao với môn Vạn Vật. Đặc biệt là Vương Thị Ngọc Dung, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lê Hồng Đa, Trần Cao Cử, Lê Thị Mát, Nguyễn Thị Nguyệt và cũng là hiền thê của thầy Trần Văn Đắt. Xin hỏi nhỏ thầy Đắt một câu nhé. Làm sao mà Thầy được vướng vào “Ṿng tay học tṛ” vậy? C̣n ai được điềm Vạn Vật 19/20 thuở ấy, nhớ lên tiếng nhé.
Rồi đến khi sang Mỹ học lại vào năm 1972, tôi đựơc gặp một số học tṛ cũ ở QGNT ngày xưa đựơc tuyển chọn theo chuương tŕnh leadership programs. Mừng ơi là mừng đựơc gặp nhau trên đất Mỹ, ở cái thuở mà trên toàn đất Mỹ chỉ có vơn vẹn 800 ngừoi Việt Nam kể cả nhân viên Ṭa Đại Sứ Việt Nam.
Rồi năm nghiệt ngă 1975 đến. Chúng tôi chia tay nhau. Người quay về cố quốc, kẻ sang Mexico hay Canada t́m kế lưu ngụ hải ngoại v́ chiến tranh ở quê nhà đến hồi kết thúc không thuận lợi cho miền Nam Việt Nam. Chúng tôi mất tin tức nhau suốt thập niên 70’s và 80’s ngoại trừ Xuân Mai đến rũ rê cùng nhau vựơt biên mấy năm liền mà không thành.
Rồi dến đầu thập niên 90, có đại hội QGNT lần đầu ở Orange County. Chỉ có thầy Phạm Nghệ là không thay đổi v́ thầy vốn gầy g̣ muôn thuở. Gặp lại, chúng tôi bỡ ngỡ âm thầm hỏi nhau, “có phải ngừơi xưa không nhĩ?” Đă mấy thập niên xa nhau! Hàng mấy chục năm đó đủ cho mái tóc đổi màu,- mà không cần đền bàn tay khéo léo của cô thợ làm tóc- và đủ để bàn tay khắc nghiệt của thời gian tạc những lằn phân chia ranh giới mắt, mủi, môi, miệng trên những gương mặt tươi mát của ngày xưa.
Rồi ít khi gặp lại nhau. Tôi cứ tưởng chừng những kỷ niệm xưa đă đựơc chôn vùi dứơi lớp thời gian mấy mươi năm dày đặc. Măi cho đến năm 2000, trên đừơng từ Nam Vang về đến Saig̣n bằng ô tô, khi ngang qua cỗng trừơng Quốc gia Nghĩa Tử, có ngừơi hỏi, “Đây có phải là trừơng QGNT không?” Tôi run giọng trả lời, “ Vâng. Bên ng̣ai trông bệ rạc với những hàng quán la liệt, nhưng bên trong đó tôi có nhiều kỷ niệm dấu yêu không tiền của nào mua lại đươc.”
Vơ Kim SơnThường thì Trung sĩ Tô
phát thư cho tôi. Nhưng hôm ấy ông Đại úy Hưng đứng trước mặt, quẳng
chiếc phong bì xuống bàn và hỏi :
|